Cách mưu cầu lẽ thật (6)

Mười một tiêu chuẩn để đánh giá tố chất của một người

Trong buổi nhóm họp lần trước, chúng ta đã thông công về một chủ đề lớn liên quan đến việc mưu cầu lẽ thật, đó là “buông bỏ những rào cản giữa bản thân và Đức Chúa Trời và sự thù địch đối với Ngài”. Trong chủ đề lớn này, chúng ta đã nói về việc buông bỏ những quan niệm và tưởng tượng của con người về công tác của Đức Chúa Trời, liên quan đến các chủ đề về điều kiện bẩm sinh, nhân tính và tâm tính bại hoại của con người, và trong những chủ đề này, các vấn đề liên quan đến tố chất đã được đề cập. Lần trước chúng ta đã thông công một chút về các vấn đề liên quan đến tố chất, giải quyết một phần quan niệm của con người. Sau khi nghe điều này, các ngươi có định nghĩa chính xác về chuyện tố chất là gì không? Tố chất chính xác là gì? Nên hiểu tố chất như thế nào? Làm thế nào để đánh giá tố chất của một người là tốt, trung bình hay kém? Dựa trên những phương diện nào để đánh giá? Các ngươi đã từng tìm kiếm và nghiền ngẫm những câu hỏi này chưa? (Thưa, con đã nghiền ngẫm một chút. Trong buổi nhóm họp lần trước, Đức Chúa Trời đã thông công rằng để đánh giá tố chất của một người, chúng ta phải xem xét hiệu suất và hiệu quả làm việc của họ. Trước đây, con không có nhiều nhận thức về phương diện này, thậm chí còn nhầm lẫn giữa sở trường và tố chất. Ví dụ, khi thấy ai đó đạt thành tích học tập đặc biệt tốt hoặc thông thạo nhiều ngôn ngữ, con sẽ nghĩ rằng điều đó cho thấy họ có tố chất tốt. Chỉ sau khi nghe Đức Chúa Trời thông công, con mới có được sự phán đoán rõ ràng về chuyện tố chất thực sự tốt là gì và điều gì chỉ đơn thuần là một vài sở trường. Nếu một người bề ngoài có vẻ khá khôn ngoan nhưng hiệu suất làm bổn phận rất thấp và luôn không thể lĩnh hội được các nguyên tắc lẽ thật, thì tố chất của họ tương đối kém.) Đánh giá tố chất của một người dựa trên hiệu suất và hiệu quả làm việc của họ – đây là cách nói chung chung. Ngoài việc xem xét hiệu suất và hiệu quả làm việc của họ, còn có những tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá tố chất của một người: Thứ nhất, năng lực học tập. Thứ hai, năng lực hiểu biết. Thứ ba, năng lực lĩnh hội. Thứ tư, năng lực tiếp nhận. Thứ năm, năng lực nhận thức. Thứ sáu, năng lực phán đoán. Thứ bảy, năng lực phân định. Thứ tám, năng lực ứng biến. Thứ chín, năng lực quyết định, cũng có thể được gọi là năng lực thực thi. Thứ mười, năng lực đánh giá và cảm thụ. Thứ mười một, năng lực sáng tạo. Các ngươi đã ghi nhớ chưa? (Thưa, rồi ạ.) Tổng cộng có bao nhiêu tiêu chuẩn? (Thưa, mười một.) Hãy đọc to lên. (Thưa, một, năng lực học tập. Hai, năng lực hiểu biết. Ba, năng lực lĩnh hội. Bốn, năng lực tiếp nhận. Năm, năng lực nhận thức. Sáu, năng lực phán đoán. Bảy, năng lực phân định. Tám, năng lực ứng biến. Chín, năng lực quyết định. Mười, năng lực đánh giá và cảm thụ. Mười một, năng lực sáng tạo.) Để đánh giá tố chất của một người, nói một cách chung chung, ngươi phải xem xét hai phương diện này: hiệu suất và hiệu quả làm việc của họ. Cụ thể, để đánh giá hiệu suất và hiệu quả làm việc của họ, ngươi phải xem xét toàn diện dựa trên mười một tiêu chuẩn này. Bằng cách này, ngươi sẽ có thể đánh giá chính xác xem tố chất của một người thực sự như thế nào. Tất nhiên, để đánh giá tố chất của một người, bước đầu tiên là xem xét tổng thể các năng lực của họ ở nhiều phương diện khác nhau, và sau đó là xem xét hiệu suất và hiệu quả làm việc của họ. Nếu họ sở hữu tố chất và năng lực ở nhiều phương diện khác nhau, thì họ chắc chắn sẽ làm việc với cả hiệu suất và hiệu quả. Nếu hiệu suất làm việc của một người cao và hiệu quả tốt, thì khi ngươi đánh giá năng lực của họ ở mỗi lĩnh vực dựa theo mười một tiêu chuẩn này, chúng chắc chắn cũng sẽ tốt. Bất kỳ điều nào trong mười một năng lực này, nếu xét riêng lẻ, đều không thể xác định hoàn toàn liệu tố chất của một người có tốt hay không – nó phải được đánh giá một cách toàn diện. Tất nhiên, trong số mười một năng lực này, những năng lực nào là quan trọng nhất? Quan trọng nhất là năng lực phán đoán, năng lực phân định, năng lực ứng biến và năng lực quyết định – những điều này liên quan đến năng lực hành động của một người sau khi hiểu một lý thuyết nhất định. Các năng lực còn lại liên quan đến sự lĩnh hội và học tập, tức là liên quan đến trí óc con người. Tiếp theo, chúng ta sẽ thông công về từng năng lực một trong số mười một năng lực này.

Thứ nhất là năng lực học tập. Năng lực học tập không chỉ đơn thuần là học một lĩnh vực kiến thức; nó còn bao gồm việc học một ngôn ngữ, một kỹ thuật nghiệp vụ cụ thể, học và tiếp nhận một điều mới, v.v. – tất cả những điều này đều thuộc phạm vi của năng lực học tập. Ví dụ, khi học một kỹ thuật nghiệp vụ, trong những trường hợp bình thường, một người về cơ bản có thể nắm vững kỹ thuật nghiệp vụ đó trong vòng sáu tháng và sau đó có thể độc lập thao tác. Nếu ngươi cũng có thể nắm vững và có thể độc lập thao tác sau sáu tháng học tập, như vậy thì được coi là có năng lực học tập. Nếu ngươi mất gấp đôi thời gian so với người bình thường để học – nếu sau sáu tháng mà ngươi vẫn chưa nắm vững và cần thêm sáu tháng nữa để học – thì đây là tố chất kém. Tức là, về năng lực học tập, nếu ngươi có thể nắm vững kỹ thuật nghiệp vụ hoặc kiến thức trong khung thời gian bình thường, điều này có nghĩa là tố chất của ngươi ở mức trung bình hoặc trên trung bình. Tuy nhiên, nếu ngươi vượt quá khung thời gian này và cần gấp đôi hoặc thậm chí gấp ba lần thời gian so với những người khác để học kỹ thuật nghiệp vụ hoặc kiến thức, thì tố chất của ngươi là kém. Nếu ngươi dành thời gian gấp hai hoặc ba lần so với người bình thường mà vẫn không thể học được, và ngươi thiếu năng lực học tập, thì tố chất của ngươi thế nào? Không có năng lực học tập, ngươi thậm chí không đáp ứng được tiêu chuẩn chung về tố chất của một người bình thường. Ngươi còn tệ hơn cả việc có tố chất kém – ngươi hoàn toàn không có tố chất. Không có tố chất thì thuộc phạm trù nào? Không có tố chất thì nghĩa là thiểu năng trí tuệ và ngu đần, hoàn toàn không có năng lực học tập. Đây là những gì liên quan đến năng lực học tập.

Thứ hai là năng lực hiểu biết. Năng lực hiểu biết nói đến khả năng của một người trong việc tìm ra các nguyên tắc và bí quyết bên trong một sự vật họ nhìn thấy hoặc thường xuyên tiếp xúc. Ví dụ, khi học một kỹ thuật nghiệp vụ nào đó, nếu nghe giảng dạy lý thuyết và quan sát thị phạm thực tế, và trong phạm vi thời gian bình thường mà ngươi có thể tìm ra bí quyết và các nguyên tắc liên quan đến kỹ thuật này, thì điều này được coi là có tố chất tốt và có năng lực hiểu biết nhất định. Nếu ngươi không thể hiểu ngay được, và ngay cả khi có người thông công với mình một lần nữa ngươi vẫn không thể hiểu; cho dù họ gợi ý nhiều lần, ngươi vẫn không thể hiểu được bí quyết để làm việc này là gì và các nguyên tắc liên quan là gì – thì ngươi có năng lực hiểu biết kém. Có lẽ sau một thời gian, ngươi có thể học được một chút bằng cách mò mẫm từ từ qua thực hành thực tế, nhưng chỉ giới hạn ở đó mà thôi. Bất kể ngươi trải qua bao nhiêu thời gian – dù là ba năm hay năm năm – nếu những gì ngươi có thể hiểu vẫn bị giới hạn trong một phạm vi hạn hẹp và khi làm việc, ngươi chỉ tuân theo một số quy định và một số quy tắc nhất định, mà không thể hiểu được các nguyên lý cơ bản liên quan và áp dụng chúng vào thực hành thực tế, điều này có nghĩa là năng lực hiểu biết của ngươi kém; những người như vậy có tố chất kém. Ví dụ, một số người làm công tác hội thánh và sau khi ngươi thông công với họ về các nguyên tắc lẽ thật, họ cảm thấy mọi điều ngươi nói đều đúng và không có nghi ngờ gì về những gì ngươi đã thông công. Tuy nhiên, họ không thể hiểu tại sao phải làm như vậy và không thể lĩnh hội được các nguyên tắc liên quan. Đặc biệt khi đối mặt với các vấn đề khác nhau hoặc các tình huống đặc biệt trong đời sống thực tế hoặc trong khi làm bổn phận, họ không biết cách áp dụng các nguyên tắc hoặc cách tiếp cận và xử lý các vấn đề họ gặp phải theo nguyên tắc. Điều này cho thấy sự thiếu năng lực hiểu biết. Những người thiếu năng lực hiểu biết sẽ không hiểu sau khi nghe thông công về lẽ thật và luôn đưa ra những yêu cầu như “Anh có thể cho một ví dụ khác không?”. hoặc “Anh có thể giải thích chi tiết hơn không?”. Chỉ sau khi ngươi cho một ví dụ và giải thích chi tiết thì họ mới có thể hiểu một chút. Nhưng nếu ngươi thông công điều gì đó sâu sắc hơn, họ sẽ lại không hiểu và sẽ yêu cầu ngươi cho một ví dụ khác. Tại sao họ liên tục yêu cầu ngươi cho ví dụ? Đó là để ngươi giải thích các tình huống tương tự trong đời sống thực tế thông qua các ví dụ, để họ có thể chỉ cần nhớ một cách tiếp cận hoặc một quy định nhất định. Tại sao họ làm điều này? Đó là vì năng lực hiểu biết của họ rất kém – cũng có thể nói rằng họ không có năng lực hiểu biết; họ không biết cách áp dụng các nguyên tắc trong đời sống thực tế hoặc trong khi làm bổn phận. Bất kể ngươi thông công với họ như thế nào, bất kể ngươi đưa ra bao nhiêu ví dụ cụ thể và giải thích rõ ràng bao nhiêu nguyên tắc, cho dù ngươi đề cập đến nguyên tắc xử lý các tình huống đặc biệt, họ nghe tới nghe lui mà vẫn không hiểu. Họ cảm thấy những gì ngươi đang nói chỉ là lý thuyết và vẫn không biết cách xử lý các vấn đề khác nhau mà họ phải đối mặt trong đời sống thực tế. Điều này cho thấy sự thiếu năng lực hiểu biết. Bất kể người khác giải thích cho họ như thế nào, loại người thiếu năng lực hiểu biết này đều không thể hiểu được – đây là tố chất kém. Những người có tố chất kém có phải cũng có hiệu suất và hiệu quả làm việc kém không? (Thưa, phải.) Nếu một người có năng lực hiểu biết kém thì hiệu suất và hiệu quả làm việc của người đó chắc chắn sẽ kém; dù gặp phải chuyện gì thì họ cũng không biết nó liên quan đến những nguyên tắc nào, và họ cũng không biết cách vận dụng các nguyên tắc trong đời sống thực tế. Đây chính là tố chất kém. Lại có một loại người khác mà hễ người khác thông công càng chi tiết, càng cụ thể thì họ lại càng thêm mơ hồ, không tài nào hiểu nổi. Ví dụ, khi nhà Đức Chúa Trời thông công về việc phân định lãnh đạo giả và những kẻ địch lại Đấng Christ, sau khi nghe xong họ liền nói: “Sao mình không hiểu nổi vậy? Nào là thông công nguyên tắc, nào là đưa ra ví dụ, rồi lại liệt kê những tình huống đặc biệt, sao mình nghe mà thấy rối tung lên thế này? Rốt cuộc là đang nói về cái gì cơ chứ? Là phải xử lý loại người nào đây? Xử lý lãnh đạo giả, hay là xử lý những kẻ địch lại Đấng Christ? Lãnh đạo hội thánh của chúng ta có phải là kẻ địch lại Đấng Christ không nhỉ? Người đó trông thì hơi ác – những biểu hiện của họ là do tâm tính bại hoại hay là do nhân tính không tốt? Rốt cuộc họ là lãnh đạo giả hay là kẻ địch lại Đấng Christ? Mình vẫn không hiểu”. Ngay cả những nguyên tắc lẽ thật mà ngươi thông công là gì họ cũng chẳng hiểu nổi; họ càng nghe thì lại càng thêm mơ hồ. Họ không chỉ không thể đối chiếu được những nguyên tắc lẽ thật này với những tình huống thực tế, mà còn mơ hồ đến mức thậm chí không biết chủ đề mà ngươi đang nói là gì nữa. Như vậy chẳng phải là không có năng lực hiểu biết sao? (Thưa, phải.) Ví dụ, hãy tưởng tượng một tình huống mà mọi người tụ họp lại để thông công về một chủ đề duy nhất, mỗi người đều đóng góp suy nghĩ của mình. Anh thông công về sự hiểu biết của anh, tôi bày tỏ sự lý giải của tôi; người này nêu một câu hỏi, người kia lại nêu một câu hỏi khác – tất cả đều xoay quanh chủ đề này. Những người không có tố chất khi nghe loại thảo luận này thì không sao hiểu nổi. Trong lòng họ nghĩ: “Mọi người đang nói gì thế nhỉ? Sao mình không hiểu gì cả?”. Họ trở nên mơ hồ. Họ không tài nào nhìn ra được mạch lạc ngầm đằng sau những câu hỏi hợp lý mà người khác nêu ra hay tại sao những câu hỏi đó lại được nêu ra – họ không thể nào thông suốt được nguyên do; họ thậm chí còn tệ hơn cả một người ngoài cuộc. Những người có tố chất, ngay cả khi chỉ quan sát từ bên lề, cũng có thể biết ai đúng ai sai, lý do tại sao ai đó hỏi một câu nào đó, câu hỏi đó sâu hay nông, câu hỏi đó được trả lời như thế nào – nhưng những người không có tố chất thì không thể hiểu bất cứ điều gì trong số này và không thể hiểu được lô-gic ngầm đằng sau nó. Điều này cho thấy họ không có năng lực hiểu biết. Khi người khác thông công về một điều gì đó, sau khi nghe xong họ không thể phân định được. Họ không biết những gì được nói có thật và khách quan hay không, cũng không thể nhìn thấu được bối cảnh và thực chất của vấn đề – họ hoàn toàn mịt mù, không biết đâu mà lần. Còn về lý do tại sao chủ đề này được thảo luận, tại sao các nguyên tắc liên quan đến chủ đề này cần được nhấn mạnh nhiều lần, cũng như câu hỏi của ai liên quan đến những nguyên tắc này và câu hỏi của ai không liên quan, thì họ chẳng hiểu hay lĩnh hội nổi một điều gì. Cứ thế nghe tiếp, họ đâm ra buồn ngủ; họ bắt đầu coi mình chỉ đơn thuần là người ngoài cuộc trong buổi thông công này, và lòng họ trở nên mờ đục. Với những người khác, các nguyên tắc lẽ thật càng được thông công thì tâm trí họ càng trở nên sáng tỏ và minh mẫn hơn. Nhưng đối với những người không có tố chất, họ càng nghe thì càng trở nên mơ hồ, và tâm tư càng trở nên mờ đục hơn. Điều này cho thấy sự thiếu năng lực hiểu biết. Đây chẳng phải cho thấy tố chất cực kỳ kém sao? Những người như vậy cũng có thể được gọi là người không có tố chất. Người không có tố chất là loại người nào? (Thưa, là người thiểu năng trí tuệ.) Người thiểu năng trí tuệ, kẻ ngốc, kẻ khờ – đây là loại người có tố chất kém nhất. Đây là phương diện thứ hai: năng lực hiểu biết.

Phương diện thứ ba là năng lực lĩnh hội. Năng lực lĩnh hội tương tự với năng lực hiểu biết, nhưng nó cao hơn năng lực hiểu biết một bậc. Sự khác biệt giữa chúng là gì? Sau khi một người đã hiểu rõ và nắm vững các nguyên tắc lẽ thật và con đường thực hành, thì năng lực lĩnh hội chú trọng hơn vào việc làm thế nào để đối chiếu những nguyên tắc và con đường đó vào các vấn đề khác nhau trong đời sống thực tế, rồi sau đó thực hiện chúng trong công tác thực tế. Chỗ khác biệt nằm ở đây. Người có năng lực lĩnh hội, sau khi hiểu rõ nguyên lý, nguyên tắc của sự việc, thì trong lòng họ có con đường thực hành, có phạm vi chính xác, có phương hướng, có mục tiêu. Họ biết cách vận dụng những nguyên lý và nguyên tắc này, cũng biết những nguyên tắc thực hành liên quan đến một số tình huống đặc thù. Giả sử rằng, sau khi nghe thông công về một số nguyên tắc lẽ thật, một người có thể nhận ra thực chất của vài vấn đề, rồi sau đó dùng lẽ thật để giải quyết một số vấn đề thực tế trong đời sống thực tế. Tức là, sau khi nghe những nguyên tắc này, họ ngay lập tức hiểu được mình nên thực hành thế nào để ứng phó với một việc đã gặp phải trước kia, rồi khi lại gặp những sự việc khác, họ cũng biết cách vận dụng các nguyên tắc để đối đãi với chúng, và ngay lập tức trong lòng có con đường thực hành; sự lĩnh hội của họ về các nguyên tắc, nguyên lý giống như một ngọn đèn soi sáng, khiến họ nhanh chóng biết cách xử lý các vấn đề khác nhau trong cuộc sống hoặc công tác, và có thể đạt đến có con đường, phương hướng, nguyên tắc thực hành. Người như vậy chính là người có năng lực lĩnh hội, đương nhiên đây là một biểu hiện của việc có tố chất tốt. Còn nếu như một người, sau khi nghe một số bài thông công về các nguyên tắc lẽ thật, đã biết cách thực hành và xử lý những việc phổ biến và thường gặp trong đời sống thực tế hoặc những việc mà họ đã trải qua, nhưng đối với một số tình huống đặc thù, phức tạp, hoặc tình huống đột xuất, hoặc những vấn đề, hiện tượng không thường gặp mà họ chưa từng có kinh nghiệm, thì họ không biết cách vận dụng những nguyên tắc lẽ thật này, vẫn phải thông qua tìm kiếm, hỏi han để có được đáp án chính xác hoặc phương án thực hành cụ thể thì mới biết cách xử lý, giải quyết; nếu không thì cho dù đã nghe nguyên tắc lẽ thật rồi, họ vẫn không biết cách xử lý những sự việc hay vấn đề đó – đây là năng lực lĩnh hội ở mức trung bình, cũng có thể nói tố chất của loại người này ở mức trung bình. Có người làm công tác mười năm, hai mươi năm, có một số kinh nghiệm công tác, cộng thêm sự thông công rõ ràng của nhà Đức Chúa Trời về các nguyên tắc lẽ thật, thì họ biết cách xử lý những tình huống phổ biến, cũng được chứng thực rằng xử lý như vậy là đúng. Nhưng đối với một số vấn đề phức tạp, đặc thù, không thường gặp, chưa từng trải nghiệm trong công tác thì họ không biết cách xử lý, phải thông qua hỏi han để có được đáp án rõ ràng thì mới có thể bắt tay vào xử lý. Nếu tình hình có sự thay đổi, phức tạp hơn so với những gì họ tưởng tượng hoặc những tình huống họ đã biết, thì họ sẽ lúng túng, không biết nên đối mặt như thế nào, càng không biết nên thực hành và xử lý ra sao cho phù hợp với nguyên tắc. Trong tình huống không biết cách thực hành, bất kể họ dựa vào tưởng tượng, dựa vào dã tâm và dục vọng của mình để làm, hay là gác lại không quan tâm – bất kể họ làm thế nào – việc họ gặp tình huống này thì liền lúng túng, không biết cách vận dụng nguyên tắc để xử lý, điều này chứng tỏ tố chất của họ rất bình thường. Tình huống thông thường có thể xử lý, nhưng tình huống đặc thù thì không biết xử lý, đây là tố chất ở mức trung bình. Nếu gặp một số tình huống đặc thù liền lúng túng đến mức thậm chí không xử lý nổi những vấn đề mà thông thường họ có thể xử lý được, thì đây là tố chất kém. Người có tố chất kém thì năng lực lĩnh hội cũng kém. Người có năng lực lĩnh hội kém và người có năng lực lĩnh hội đầy đủ thì có khác biệt không? (Thưa, có.)

Có những người, bất kể được người khác thông công thế nào, họ cũng không nắm bắt được nguyên tắc, chỉ hiểu được đạo lý, quy điều và biết hô vài khẩu hiệu, chứ không biết làm công tác thực tế, không biết giải quyết vấn đề như thế nào. Ngươi xem, sau khi nghe thông công xong, họ nói năng rõ ràng mạch lạc, dường như rất hiểu, nhưng thực ra họ hoàn toàn chẳng hiểu những gì vừa nghe. Đến khi làm công tác cụ thể thì họ lại lúng túng, không biết bắt đầu từ đâu, gặp vấn đề cũng không biết giải quyết thế nào, vẫn không biết làm công tác cụ thể. Khi đối đãi và xử lý các loại người, các loại việc, họ vẫn không có nguyên tắc. Trong lòng họ nghĩ: “Lúc nghe giảng đạo mình đã hiểu rõ nguyên tắc lẽ thật rồi – tại sao trong hoàn cảnh thực tế lại không vận dụng được? Những điều mình hiểu và thường hay giảng tại sao lại không còn tác dụng nữa?”. Thế là họ lại thấy hoang mang. Người có tố chất kém chỉ biết giảng đạo lý và tuân giữ quy điều, một khi gặp chuyện thì họ không nhìn thấu được. Những đạo lý mà họ biết giảng hoàn toàn vô dụng, quy điều cũng không giữ nổi, vấn đề gì cũng không giải quyết được, gặp khó khăn thì không biết thực hành như thế nào. Ví dụ, khi có người gây nhiễu loạn và gián đoạn công tác của hội thánh, nói một số lời hoang đường, thì họ không phân định được tính chất của chuyện này là gì. Họ không biết những cái nào thuộc về gây nhiễu loạn và gián đoạn, cũng không biết tính chất của chúng là gì; thế nên họ càng không biết làm sao để giải quyết vấn đề này. Người khác hỏi họ: “Chẳng phải anh biết phân định kẻ ác sao? Sao đến khi xử lý kẻ ác lại không có nguyên tắc nữa rồi?”. Họ đáp: “Những đạo lý này tôi đều hiểu cả, nhưng không biết nên dùng chúng để giải quyết vấn đề nào, hay dùng cho người nào thì thích hợp”. Đây có phải là không có năng lực lĩnh hội không? (Thưa, phải.) Ngươi xem, lúc đó sau khi nghe nguyên tắc, họ tổng kết từng điều một theo nghĩa đen rất tốt, nhớ cũng rất chính xác, thậm chí thuộc làu làu, không sót một chữ. Đáng tiếc thay, trong đời sống thực tế, khi nhìn nhận con người và sự việc, cũng như khi hành xử và hành động, họ lại hoàn toàn không có con đường thực hành nào, chỉ biết hô khẩu hiệu, giảng đạo lý, tuân giữ quy điều. Bất kể trong đời sống thực tế hay trong khi làm bổn phận, bất kể gặp phải chuyện gì, họ đều không biết tìm kiếm lẽ thật hay thực hành theo nguyên tắc. Đây chính là không có năng lực lĩnh hội. Người không có năng lực lĩnh hội tuy cũng thường xuyên đọc lời Đức Chúa Trời, nhưng họ không hiểu được lẽ thật trong lời Đức Chúa Trời là gì hay nguyên tắc là gì. Vì vậy, khi gặp chuyện, họ không tìm được lời Đức Chúa Trời có liên quan để phân định và giải quyết, mà phải để người khác tìm giúp. Khi đọc lời Đức Chúa Trời, họ luôn chú trọng điều gì? Họ chỉ nhìn xem có ví dụ cụ thể nào để giải thích chuyện đó không. Nếu không có ví dụ thì họ không hiểu được ý của lời Đức Chúa Trời. Chẳng hạn, đối với lời Đức Chúa Trời vạch rõ thực chất bản tính con người, nếu không có ví dụ giải thích thì họ không đọc hiểu được, cũng không thể dựa vào lời Đức Chúa Trời để đối chiếu với tình trạng của mình mà thực hành phân định. Chỉ khi có người dựa vào tình trạng thực tế của họ mà thông công lẽ thật, phân định và mổ xẻ họ thì họ mới có thể hiểu được; còn nếu không có ai thông công như vậy thì họ không hiểu được lời Đức Chúa Trời. Loại người này khi đọc lời Đức Chúa Trời thì luôn phàn nàn rằng: “Sao không có ví dụ cụ thể nào vậy? Như thế này làm sao đối chiếu với bản thân được? Lời này khó hiểu quá, đọc thế nào cũng không đối chiếu được!”. Đây chính là đọc không hiểu lời Đức Chúa Trời, càng khỏi nói đến chuyện có thể hiểu lẽ thật hay đưa lời Đức Chúa Trời vào trong đời sống thực tế. Điều họ hiểu chỉ là đạo lý và quy điều đơn giản, mà những đạo lý và quy điều này trong đời sống thực tế cũng không có tác dụng, gặp chuyện vẫn không có con đường thực hành. Đây chính là không có năng lực lĩnh hội. Người không có năng lực lĩnh hội thì có phải là người có tố chất kém không? (Thưa, phải.) Người có tố chất kém nhất chính là những người hoàn toàn không có tố chất; đối với các nguyên tắc khác nhau mà họ nghe, thì loại người này không tài nào hiểu nổi; họ không biết tại sao lại đưa ra ví dụ này ví dụ kia, tại sao lại nói những điều ấy, hay tại sao người ta lại có những biểu hiện nhất định – những điều như vậy họ không hiểu được, những điều này quả thực đã vượt quá tầm của họ. Dù ngươi có cho họ vài ví dụ, họ cũng chỉ cảm thấy như thể ngươi đang kể chuyện hay nói đùa, họ giống như trẻ con nghe kể chuyện, thấy cũng thú vị, lý thú vậy thôi. Nếu có ai hỏi họ có hiểu những gì vừa nghe không, thì họ sẽ nói là hiểu, thậm chí còn có thể nhại lại giọng điệu hài hước của người khác hoặc bắt chước cách người khác giáo huấn người ta. Nếu ngươi hỏi họ: “Anh có biết những nguyên tắc liên quan mà con người nên tuân thủ là gì không?”. Thì họ sẽ đáp: “Hả? Có nguyên tắc nữa sao? Tôi không nghe thấy”. Loại người này có năng lực lĩnh hội không? (Thưa, không có.) Họ thiếu năng lực lĩnh hội và không thể hiểu nổi lời Đức Chúa Trời. Người không có năng lực lĩnh hội mỗi ngày cũng ăn uống vài đoạn hoặc vài chương lời Đức Chúa Trời theo lệ, theo giờ giấc, cũng học thánh ca và nhóm họp đúng giờ. Nhưng hễ gấp sách lại hay tắt đi các bản ghi âm thánh ca, thì tất cả những gì họ nhớ được từ những nội dung mà mình đã ăn uống chỉ là dăm ba cụm từ thuộc linh và một số câu chữ sáo rỗng, ví như những câu cửa miệng của người ta – “Đức Chúa Trời tể trị vạn sự” và “Mọi sự hãy thuận phục Đức Chúa Trời”, hoặc “Vận mệnh con người do Đức Chúa Trời định sẵn” và “Cứ thực hành yêu kính Đức Chúa Trời là được”. Trong những hoàn cảnh đau khổ thực sự, họ chỉ có thể thốt ra những cụm từ giả thuộc linh, kiểu như: “Tôi khổ vì tình cảm” hay “Tôi khổ vì xác thịt”. Còn về bất kỳ nguyên tắc nào liên quan đến cách làm người, đời sống thường nhật, công tác, cùng nhiều nguyên tắc lẽ thật khác, thì họ hoàn toàn chẳng biết chẳng hiểu gì sất. Những điều này không hề hiện diện trong lòng họ, cũng không thể nào chứa nổi trong lòng họ. Vì sao lại không thể chứa nổi? Bởi vì, xét về tố chất, dạng người như vậy đơn giản là không thể nào hiểu nổi các nguyên tắc lẽ thật này, và các nguyên tắc lẽ thật này vượt quá khả năng của họ; chính vì thế, những điều này không thể bén rễ trong lòng họ được. Bên trong một người có những gì và họ có thể chấp nhận được những gì, chính điều đó chứng tỏ họ hiểu được đến đâu và những gì không vượt quá khả năng của họ. Nếu một người hoàn toàn không có tố chất, thiếu năng lực lĩnh hội, và không thể hiểu được ý nghĩa chính xác của lời Đức Chúa Trời, thì dẫu có được đặt ở thiên đàng hay tầng trời thứ ba đi nữa, liệu họ có hiểu nổi lời Đức Chúa Trời không? Liệu họ có thực hành được lẽ thật không? Liệu họ có thuận phục được Đức Chúa Trời không? (Thưa, không.) Họ vẫn sẽ y như cũ không hề thay đổi, tố chất của họ vẫn sẽ y nguyên như vậy. Người có tố chất kém chỉ có thể lĩnh hội được một phạm vi rất hạn hẹp. Người có tố chất tốt thì lĩnh hội được nhiều hơn, sâu sắc hơn, và ở một tầm mức cao hơn. Người có tố chất trung bình thì lĩnh hội kém xa người có tố chất tốt; những gì họ có thể lĩnh hội được chỉ gói gọn trong một phạm vi trung bình, không thể vượt ra ngoài được, bởi vì tố chất đã hạn chế họ. Tệ nhất là những người hoàn toàn không có tố chất. Dạng người như vậy, chỉ xét riêng về tố chất, thì hoàn toàn không có chút năng lực lĩnh hội nào. Do đó, biểu hiện của họ trong đời sống thực tế và khi làm bổn phận là họ chẳng hiểu gì cả; dù đã tin Đức Chúa Trời mười năm, hai mươi năm, hay thậm chí đến bạc đầu, thì những đạo lý về đức tin nơi Đức Chúa Trời và những cụm từ thuộc linh mà họ nói đến vẫn cứ là những thứ cũ rích mà họ hiểu được hồi mới tin. Bất kể tin bao nhiêu năm, họ cũng chẳng có chút tiến bộ nào. Tại sao họ không tiến bộ? Bởi vì họ không có năng lực lĩnh hội, và dù tin Đức Chúa Trời bao nhiêu năm, những gì họ tiếp thu được cũng chỉ là những câu chữ đã chết đó mà thôi. Ngay cả sau nhiều năm tin Đức Chúa Trời, năng lực học tập, năng lực hiểu biết, năng lực lĩnh hội và các năng lực khác của họ cũng không hề cải thiện. Họ là dạng người nào? Họ là những người có tố chất cực kỳ kém. Bởi vì tố chất của họ kém và các năng lực khác nhau của họ không cải thiện, cho nên dù dạng người như vậy sống đến bốn mươi, năm mươi, sáu mươi, hay bảy mươi tuổi, thì năng lực tự chăm sóc bản thân của họ vẫn sẽ rất yếu kém. Qua việc quan sát năng lực sinh tồn và năng lực tự chăm sóc bản thân của họ, ngươi có thể biết tố chất của dạng người này là như thế nào. Loại người này là thiểu năng trí tuệ, ngu đần, và xuẩn ngốc, năng lực tự chăm sóc bản thân của họ rất kém. Tại sao Ta nói năng lực tự chăm sóc bản thân của họ kém? Bởi vì năng lực học tập, năng lực hiểu biết và năng lực lĩnh hội của họ đều kém, cho nên kinh nghiệm, thường thức, quy luật và bí quyết làm việc mà họ đạt được trong cuộc sống rất hạn chế. Ngay cả ở tuổi sáu mươi hay bảy mươi, họ vẫn y như cũ. Người có tố chất tốt, đến độ ba mươi tuổi, đối với các vấn đề khác nhau phải đối mặt trong cuộc sống và trên đường đời, thì họ đã có được một số kiến thức nhất định, cũng như đạt được những hiểu biết, kiến giải và kinh nghiệm về các vấn đề này. Thông qua những kinh nghiệm đó, họ biết phải làm gì khi gặp phải các vấn đề khác nhau để có thể sống tốt hơn và bảo vệ bản thân hữu hiệu hơn. Thế nhưng, với những người có tố chất kém, bởi vì năng lực của họ ở mọi phương diện đều yếu kém, nên bất kể tuổi tác ra sao, năng lực sinh tồn của họ vẫn rất kém. Kém đến mức nào? Kém đến độ họ thiếu cả năng lực sống độc lập. Có người nói: “Xem kìa, họ ăn uống ngon miệng, ngủ thì say giấc, sức khỏe thể chất cũng tốt – cớ sao Ngài lại nói họ thiếu năng lực sống độc lập?”. Năng lực sinh tồn mà chúng ta đang nói đến ở đây không phải là chuyện một người biết ăn hay biết ngủ. Nếu một người ngay cả đến giờ ăn mà còn không biết ăn, thì đó không phải là người bình thường nữa rồi, mà là người thiểu năng trí tuệ – đối với dạng người như vậy thì càng chẳng cần phải bàn đến tố chất làm gì. Phạm vi chúng ta đánh giá tố chất của con người chủ yếu bao gồm những người mà bề ngoài được coi là bình thường. Nó không bao gồm những người khuyết tật về thể chất, thiểu năng trí tuệ, bị bệnh tâm thần, hoặc những người thiếu năng lực tự chăm sóc bản thân. Chúng ta thường thấy một số người thậm chí không thể tìm ra bất kỳ quy luật, nguyên tắc hay bí quyết nào trong việc quản lý cơm ăn, áo mặc, nhà ở và đi lại của mình. Bất kể họ bao nhiêu tuổi, họ cũng không biết cách xử lý những phương diện này của cuộc sống sao cho phù hợp với nguyên tắc và nhân tính. Ví dụ, họ không biết mùa nào nên mặc quần áo gì cho phù hợp nhất, mà chỉ đơn giản làm theo người khác. Khi trời lạnh, họ mặc quần áo quá mỏng và bị cảm lạnh, nhưng lại không biết tại sao; hoặc, họ bị bệnh do ăn phải thực phẩm không hợp vệ sinh, nhưng không biết nguyên nhân là gì. Họ không thể rút ra bất kỳ kết luận nào từ những kinh nghiệm này. Họ chẳng phải là thiểu năng trí tuệ sao? Họ chẳng phải là thiếu năng lực sống độc lập sao? (Thưa, phải.) Bất kể họ bao nhiêu tuổi, họ cũng không biết cách sống và cứ thế sống một cách mơ hồ, hồ đồ. Đối với một người bình thường, khi họ có đứa con đầu lòng, họ có thể thiếu kinh nghiệm, nhưng đến khi có đứa con thứ hai, họ sẽ có được một chút kinh nghiệm về cách chăm sóc và nuôi dạy con cái. Tuy nhiên, một số người, ngay cả sau khi có hai hoặc ba đứa con, vẫn không có kinh nghiệm. Khi được hỏi họ chăm sóc con cái như thế nào, họ nói: “Tôi không biết, tôi cứ mơ hồ mà làm cho xong thôi. Dù sao thì, khi bọn trẻ đói, tôi cho chúng ăn, chúng no rồi thì xong chuyện”. Bất kỳ đứa trẻ nào được giao vào tay họ thì sống sót đã là may mắn lắm rồi. Với trình độ năng lực sinh tồn của họ, không một đứa trẻ nào có thể sống sót dưới sự chăm sóc của họ. Một số người không hiểu cách xử lý các vấn đề khác nhau phát sinh trong cuộc sống hoặc trong việc sinh tồn. Những người như vậy thiếu năng lực sinh tồn. Ví dụ, khi hai vấn đề phát sinh cùng một lúc, họ bối rối và không biết phải làm gì, cũng không biết vấn đề nào cần xử lý trước. Họ trở nên hoảng loạn, lo lắng và sợ hãi, rồi oán trách rằng: “Tại sao hai vấn đề này lại xảy ra cùng một lúc? Bây giờ tôi phải làm gì đây?”. Họ lo lắng đến mức không ăn không ngủ được. Họ như vậy ở tuổi ba mươi, và ngay cả ở tuổi sáu mươi, vóc giạc của họ vẫn như cũ. Khi tình huống phát sinh và họ không tìm ra giải pháp, họ bắt đầu khóc. Người khác nói: “Anh khóc cái gì? Đây đâu phải là chuyện gì to tát – đây đều là những chuyện thường thấy nhất. Anh chỉ cần phân chia thứ tự ưu tiên và xử lý chúng dựa trên mức độ quan trọng là được”. Nếu ai đó không thể xử lý những vấn đề này, bỏ bữa và mất ngủ vì chúng, hoặc thậm chí cân nhắc đến việc kết liễu đời mình, vậy chẳng phải là cực kỳ nhu nhược sao? Họ thậm chí còn oán trách: “Tại sao chuyện này không xảy ra với người khác? Tại sao lại xảy ra với tôi?”. Nó đã xảy ra với ngươi, vậy thì hãy xử lý nó. Nếu ngươi không xử lý được, hãy nhìn quanh ngươi xem có ai hiểu thì hỏi họ. Một khi ngươi đã làm rõ vấn đề, chẳng phải sau đó ngươi sẽ biết cách xử lý nó sao? Khi không có chuyện gì xảy ra, những người như vậy khá giỏi nói chuyện, trình bày hết bộ đạo lý này đến bộ đạo lý khác. Nhưng khi có chuyện xảy ra, họ hoảng loạn, bối rối, bắt đầu khóc lóc sụt sùi, đầu óc trống rỗng, và suy nghĩ của họ trở nên hỗn loạn – họ không biết phải làm gì. Nếu ai đó còn trẻ, chưa trải qua nhiều chuyện trong đời và thiếu kinh nghiệm, thì việc họ lo lắng và sợ hãi khi có chuyện xảy ra là bình thường. Tuy nhiên, đến khi họ ở tuổi ba mươi hoặc bốn mươi, sau khi đã trải qua nhiều chuyện trên đời và có được kinh nghiệm, họ trở nên tương đối trưởng thành và dày dạn, xử lý công việc vững vàng và tự tin hơn. Những người trẻ tuổi thấy vậy thì đều khâm phục, nghĩ rằng mình có thể dựa dẫm vào những người như vậy. Nếu một người thiếu tố chất và năng lực sinh tồn, thì họ cũng thiếu năng lực tự chăm sóc bản thân. Nếu không có người lớn hoặc người có kinh nghiệm ở bên cạnh để hỗ trợ và giám sát công việc cho họ, mọi việc họ xử lý đều trở thành một mớ hỗn độn. Những người như vậy có tố chất cực kỳ kém. Tố chất của một số người kém đến mức nào? Lấy ví dụ một số bà nội trợ, họ không biết một bữa ăn cho gia đình mấy người thì cần bao nhiêu gạo hay bao nhiêu món ăn – một số người đã nấu ăn hai mươi hoặc ba mươi năm mà vẫn không biết mỗi bữa cần chuẩn bị bao nhiêu hay độ mặn nhạt của các món ăn như thế nào, và đôi khi thậm chí không thể nắm bắt chính xác thức ăn đã chín kỹ hay chưa. Tố chất của họ kém đến mức đó. Những người như vậy chẳng phải là không có não sao? Họ đúng là óc lợn! Những người như vậy thiếu năng lực sống độc lập. Họ không có đường lối để làm bất cứ việc gì và dễ dàng mắc lỗi. Khi có chuyện xảy ra, nếu không có ai giám sát công việc cho họ, mọi việc họ làm đều trở nên rối tinh rối mù, hỏng bét hết cả. Họ là những kẻ ngốc nghếch và thiểu năng trí tuệ. Đối với loại người này, người có năng lực lĩnh hội kém nhất, bất kể họ nghe bao nhiêu mối thông công về các nguyên tắc lẽ thật, thì cũng chỉ hiểu được đạo lý. Trong đời sống hiện thực, họ vẫn không biết cách áp dụng những nguyên tắc này. Nói cách khác, những đạo lý mà họ hiểu không thể cung cấp cho họ bất kỳ mục tiêu, phương hướng hay đường lối nào trong đời sống hiện thực. Đây là những người có năng lực lĩnh hội kém nhất. Mối thông công của chúng ta về điều thứ ba, năng lực lĩnh hội, đến đây là kết thúc.

Điều thứ tư là gì? Năng lực tiếp nhận. Năng lực tiếp nhận có một vài điểm khác biệt với năng lực hiểu biết và năng lực lĩnh hội. Năng lực tiếp nhận liên quan đến việc liệu khi những sự vật mới mẻ xuất hiện, ngươi có thể phân định được chúng là tích cực hay tiêu cực, chúng có lợi ích hay tác hại gì đối với cuộc sống, công việc và sự sinh tồn của ngươi, cũng như cách ngươi nhìn nhận, đối đãi và vận dụng chúng. Nếu ngươi có tố chất tốt, thì khi những sự vật mới mẻ xuất hiện, ngươi sẽ đặc biệt nhạy bén và đặc biệt tinh tường. Sau khi nhanh chóng tiếp nhận thông tin về một sự vật mới mẻ nào đó, ngươi sẽ có thể nhận biết được nó có lợi ích hay tác hại gì đối với con người, hoặc nó có khuyết điểm gì. Nếu nó có ích cho một vấn đề nào đó trong cuộc sống thực tế của ngươi, thì ngươi có thể lập tức vận dụng điểm mạnh của nó; nếu nó có hại, ngươi cũng có thể tránh được tác hại hoặc khuyết điểm của nó đối với con người. Nghĩa là, ngươi có một mức độ tiếp nhận nhất định đối với những sự vật mới mẻ, và ngươi có thể nhanh chóng nhìn thấu những sự vật mới mẻ mang tính tiêu cực, có hại cho con người và có khuyết điểm – đây chính là có năng lực tiếp nhận. Đây chính là sự khác biệt giữa năng lực tiếp nhận, năng lực hiểu biết và năng lực lĩnh hội. Năng lực tiếp nhận chủ yếu chỉ sự nhạy bén của một người đối với những sự vật mới mẻ và năng lực phân biệt chúng của người đó. Nếu ngươi phân biệt những sự vật mới mẻ một cách nhanh chóng, có thể nhanh chóng tiếp nhận điểm mạnh cũng như lợi ích của chúng và vận dụng chúng vào cuộc sống thực tế để phục vụ cho cuộc sống hoặc công việc của ngươi, rồi sau đó buông bỏ hoặc loại bỏ những thứ cũ kỹ đã bị những sự vật mới mẻ này thay thế, thì điều này nghĩa là ngươi có năng lực tiếp nhận và là người có tố chất tốt. Kế đến là những người có tố chất trung bình. Những người như vậy đặc biệt chậm chạp trong việc tiếp nhận một số sự vật mới mẻ đã thay thế những thứ cũ kỹ, cũng như những quan điểm mới và công nghệ mới. Cái “chậm” này là chỉ điều gì? Nó chỉ sự thật rằng chỉ khi một sự vật mới mẻ nào đó đã trở nên phổ biến, được vận dụng rất rộng rãi, và cách nói về nó đã trở nên rất thông dụng, thì họ mới có thể tiếp nhận nó. Họ không có tri giác đối với những sự vật mới mẻ và không thể phân định được chúng là tích cực hay tiêu cực. Ngay cả khi những sự vật mới mẻ tích cực xuất hiện, trong lòng họ vẫn có thái độ chống đối và coi thường chúng; họ luôn có những quan niệm riêng và thái độ riêng, luôn đứng về phía trào lưu của thế gian, họ khép kín và không tiếp nhận những sự vật mới mẻ, mà từ chối chúng. Chỉ khi một sự vật mới mẻ nào đó lan rộng, nhiều người đã trải nghiệm và nhận ra những ưu điểm của nó, người ta đã được lợi từ nó, thì họ mới bắt đầu tiếp nhận và vận dụng nó. Đây là có tố chất trung bình. Những người như vậy rất bị động khi tiếp nhận những sự vật mới mẻ; họ không chủ động tiếp nhận. Điều này là bởi vì, một mặt, họ không có sự nhạy bén đối với những sự vật mới mẻ; họ tê dại, lạc hậu và khép kín. Mặt khác, cũng là vì họ có những quan niệm và ý kiến nhất định về những sự vật mới mẻ, mang thái độ khinh miệt và coi thường chúng. Lý do chủ quan cho điều này là tố chất của họ ở mức trung bình, và năng lực tiếp nhận của họ ở mức trung bình, điều này khiến họ rất tê dại; khi những sự vật mới mẻ xuất hiện trước mặt họ, họ không có ý thức, không có cảm giác, và thiếu thái độ chủ động tiếp nhận chúng. Ngoài ra, bản thân họ vốn đã đặc biệt lạc hậu, đặc biệt tê dại và trì độn. Hai lý do này khiến họ chậm chạp trong việc tiếp nhận những sự vật mới mẻ. Chỉ khi nhiều người đã vận dụng một thứ gì đó, nói về việc những ưu điểm của nó là gì, sự tiện lợi của nó là gì, nó có tác động gì đến con người, nó cho phép con người đạt được những lợi ích gì, và họ đã tận mắt nhìn thấy tất cả những điều này – cũng đã thấy những người xung quanh họ đích thân trải nghiệm nó ở một mức độ nào đó – thì họ mới từ từ tiếp nhận nó trong lòng và sau đó bắt đầu vận dụng nó. Điều này cho thấy tố chất gì? Năng lực tiếp nhận của những người như vậy ở mức trung bình. Có năng lực tiếp nhận ở mức trung bình nghĩa là tố chất của một người ở mức trung bình. Ví dụ, trong việc rao truyền phúc âm hoặc trong một số công tác nghiệp vụ, có những anh chị em đi đầu trong việc thử nghiệm và vận dụng một phương pháp mới hoặc một kỹ thuật nghiệp vụ mới. Họ nhanh chóng cảm thấy rằng việc vận dụng kỹ thuật nghiệp vụ này rất tốt, vì vận dụng rồi thì hiệu quả làm bổn phận của họ khá tốt và hiệu suất cũng được nâng cao. Sau đó, họ nhanh chóng quảng bá kỹ thuật hoặc phương pháp mới này, khuyến khích các anh chị em khác học hỏi và vận dụng. Những người có tố chất tốt thì giỏi tìm kiếm những kỹ thuật và phương pháp mới trong việc làm bổn phận. Rất nhanh chóng, họ có thể nhận thức rõ ràng và đánh giá chính xác một sự vật mới mẻ, nắm bắt cơ hội này, có thể hoàn toàn tiếp nhận một kỹ thuật hoặc phương pháp mới, và vận dụng nó vào công tác thực tế. Về việc những điểm mạnh và điểm yếu của sự vật mới mẻ này là gì và nó có thể đạt được những kết quả nào, họ có thể liên tục đưa ra kết luận và sau đó thực hiện những điều chỉnh. Qua một thời gian tìm tòi, họ dần dần nắm bắt được những phương diện nào của nghiệp vụ kỹ thuật này hoặc thông tin này có thể được vận dụng trong công tác hội thánh, và những phương diện nào thì không thể. Sau đó, họ dần dần cải tiến nó trong công tác của mình theo các nguyên tắc và yêu cầu của nhà Đức Chúa Trời. Họ càng cải tiến sự vật mới mẻ này, nó càng trở nên tốt hơn, cuối cùng mang lại thành quả. Đây là một biểu hiện của tố chất tốt. Tuy nhiên, một số người, trong việc rao truyền phúc âm, vẫn khư khư giữ lấy phương pháp ban đầu, rao truyền theo kiểu một đối một hoặc hai đối một, hoặc dựa vào chiến thuật biển người. Họ tê dại và trì độn, chậm chạp trong việc tiếp nhận phương pháp tiên tiến. Mặc dù ngoài miệng họ thừa nhận rằng phương pháp tiên tiến nghe có vẻ khá tốt và khả thi, nhưng trong lòng họ luôn có sự e ngại. Họ sợ rằng nếu họ vận dụng phương pháp này, nó sẽ mang lại kết quả kém, nên họ không dám thử. Những người khác thuyết phục họ, nói rằng: “Anh không cần phải lo lắng nhiều như vậy. Chúng tôi đã thử qua rồi; thực hành theo cách đó mang lại kết quả đặc biệt tốt”. Nhưng họ vẫn không dám thử, và tiếp tục bám giữ lấy phương pháp ban đầu. Chỉ khi nhiều người vận dụng phương pháp mới để rao truyền phúc âm, mỗi tháng lại đưa về được nhiều người hơn và tăng cường hiệu suất, thì họ mới miễn cưỡng quyết định thử xem sao, nhưng họ vẫn chỉ đi những bước nhỏ, không dám triệt để thay đổi kế hoạch và chiến lược của mình. Như vậy là quá chậm chạp trong việc tiếp nhận những sự vật mới mẻ; đây là có tố chất trung bình. Những người có tố chất kém thì năng lực tiếp nhận còn kém hơn. Họ không thể nhìn thấu một sự vật mới mẻ, không thể phán đoán nó, và không biết phải đối đãi với nó như thế nào. Trong lòng họ có thái độ chống đối, nghĩ rằng những người tin Đức Chúa Trời không nên tiếp nhận những sự vật mới mẻ, không nên tiếp nhận những thông tin và công nghệ mới. Ngươi thấy đấy, họ khá khép kín. Có những người từ một số giáo phái cho đến ngày nay đều không sử dụng điện, không xem ti vi, và không sử dụng máy tính hay bất kỳ sản phẩm điện tử nào khác. Khi ra ngoài, họ không sử dụng phương tiện giao thông hiện đại, thậm chí không đi xe đạp. Họ đi bằng xe gì? Xe bò và xe ngựa, khi di chuyển thì bụi đất mù mịt. Có người hỏi: “Tại sao anh không đi xe đạp hoặc ô tô?”. Họ nói: “Những thứ đó là do con người tạo ra. Chúng tôi sợ Đức Chúa Trời sẽ không thích nếu chúng tôi sử dụng chúng”. Đây là có năng lực tiếp nhận kém. Những người có năng lực tiếp nhận kém thì nhìn nhận nhiều sự vật một cách sai lầm. Họ là những người bảo thủ, giữ vững quan điểm của mình, chống đối tất cả những sự vật mới mẻ. Bản thân việc họ chống đối đã là một vấn đề về tư tưởng và đầu óc của họ. Có vấn đề như vậy cho thấy điều gì? Nói một cách dè dặt, nó cho thấy tố chất của những người như vậy quá trung bình. Nếu họ luôn không thể tiếp nhận những sự vật mới mẻ, thì tố chất của họ kém, và họ là người đầu óc cứng nhắc. Họ cho rằng công tác của Đức Chúa Trời không thay đổi, bất cứ lời nào Đức Chúa Trời đã phán thì Đức Chúa Trời sẽ mãi mãi chỉ phán những lời đó, và bất cứ công tác nào Đức Chúa Trời đã làm thì Đức Chúa Trời sẽ mãi mãi chỉ làm công tác đó. Đối với nhân loại này và thời đại này, họ cho rằng những gì họ ban đầu đã thấy và trải nghiệm sẽ mãi mãi không thay đổi và sẽ luôn như vậy. Ví dụ, 20 hoặc 30 năm trước, người ta có một quan niệm nhất định về sự hiểu biết của họ đối với quần áo. Họ tin rằng chất liệu bông là hoàn toàn tự nhiên và tất cả các loại hàng dệt từ bông đều tốt; dù là áo khoác bông, áo phông, hay đồ lót, miễn là làm từ bông, thì nó tốt hơn sợi tổng hợp. Họ kiên quyết giữ vững niềm tin này. Tuy nhiên, 20 hoặc 30 năm sau, ngành dệt may đã phát triển, và nhiều loại vải tương tự như vải bông đã xuất hiện, cùng với các loại quần áo sợi tổng hợp khác nhau. Có nhiều loại hàng dệt tốt hơn vải bông; chúng thoáng khí hơn, tản nhiệt nhanh hơn, thấm hút ẩm nhanh hơn, và không bị biến dạng, co rút, hay phai màu dù giặt rửa như thế nào. Ngoài ra, chúng đặc biệt thoải mái và nhẹ khi mặc, không gây hại cho da. Nhưng một số người vẫn không thể tiếp nhận sợi tổng hợp. Họ vẫn tin rằng chỉ có hàng dệt từ bông là tốt vì bông được trồng trên đất, được Đức Chúa Trời tạo ra, và là tự nhiên, trong khi sợi tổng hợp là do con người tạo ra. Họ không nhận ra rằng mặc dù bông đã được chuẩn bị bởi Đức Chúa Trời và là tốt nhất, nhưng đất đai đã bị ô nhiễm, và sâu đục quả bông gây hại cho cây bông đã trở nên mạnh hơn qua mỗi thế hệ. Thuốc trừ sâu thông thường không thể giải quyết vấn đề. Cuối cùng, bông phải trải qua các phương pháp khử trùng đặc biệt để khi mặc không bị ngứa. Nếu được xử lý tốt, chi phí của quần áo sẽ cao, đòi hỏi một mức giá bán cực kỳ đắt. Nếu không được xử lý tốt, thì nó lại không tốt bằng việc mặc quần áo sợi tổng hợp. Ngươi thấy đấy, chất lượng của quần áo sợi tổng hợp ngày nay đặc biệt tốt; nhiều vận động viên chuyên nghiệp mặc nó, và phản hồi đều khá tích cực. Nhưng một số người, sau khi nghe điều này, vẫn không tiếp nhận và vẫn tin rằng hàng dệt từ bông tốt hơn. Những người như vậy chẳng phải là ngu muội, ngoan cố sao? (Thưa, phải.) Sự ngu muội, ngoan cố này là một vấn đề về nhân tính của họ. Vậy, tố chất của họ thì sao? (Tố chất của họ không tốt.) Khi một sự vật mới mẻ xuất hiện trước mặt người ta, thái độ của họ trong việc phán đoán xem nó đúng hay sai – để quyết định tiếp nhận hay từ chối – phụ thuộc vào tố chất của họ. Nếu hầu hết mọi người nghĩ rằng sự vật mới mẻ này là đúng, và họ hùa theo đám đông mà bị động tiếp nhận nó, thì người như vậy cùng lắm là có tố chất trung bình. Nếu họ không thể phân biệt được một sự vật mới mẻ là đúng hay sai, có lợi cho con người hay không, có những điểm mạnh và điểm yếu nào so với những thứ cũ kỹ mà họ đã tin tưởng vững chắc trước đây, không thể phân định hoặc nhận ra sự khác biệt giữa những sự vật mới và cũ – nếu họ không thể phán đoán bất cứ điều gì trong số này, thì điều đó chứng tỏ họ không có năng lực tiếp nhận những sự vật mới mẻ; nghĩa là, họ không có năng lực lĩnh hội. Những người như vậy có tố chất kém. Ban đầu, khi có thứ gì đó mới xuất hiện, họ thiếu một mức độ nhạy bén nhất định. Khi họ nghe về thứ này, họ cũng hoàn toàn không có năng lực tiếp nhận. Cuối cùng, ngay cả khi họ miễn cưỡng tiếp nhận sự vật mới mẻ, thì đó cũng chỉ là nhờ sự giúp đỡ và thuyết phục của người khác, người ta thậm chí phải so sánh những ưu điểm và điểm mạnh của sự vật mới mẻ này với những thứ cũ kỹ, cho họ tận mắt nhìn thấy rằng có sự khác biệt rõ ràng giữa nó và những thứ cũ kỹ, rằng sự vật mới mẻ này rõ ràng vượt trội hơn những thứ cũ kỹ kia, thì họ mới có thể tiếp nhận. Tuy nhiên, trong lòng những người này vẫn không thể nhìn rõ những điều tốt đẹp về nhiều sự vật mới mẻ khác, mà vẫn cảm thấy rằng những thứ cũ kỹ là tốt và nên được giữ vững. Chỉ trong những trường hợp không còn lựa chọn nào khác, họ mới miễn cưỡng và bị động tiếp nhận những sự vật mới mẻ. Đây là những người có tố chất kém. Một người có tố chất trung bình là người mà chỉ cần vài lời chỉ dẫn là ngay lập tức hiểu ra, nhận ra rằng mình đã nhìn nhận sự việc một cách lệch lạc, lỗi thời. Đây là có tố chất trung bình. Một người có tố chất kém, mặt khác, đòi hỏi những lời chỉ dẫn và nhắc nhở lặp đi lặp lại, cũng như sự thuyết phục tập thể từ mọi người – cùng với một số sự thật và ví dụ cụ thể cho thấy sự vật mới mẻ này mang lại lợi ích cho con người như thế nào sau khi được áp dụng rộng rãi – được vậy thì họ mới miễn cưỡng tiếp nhận và sử dụng nó. Tuy nhiên, trong chuyện riêng tư, họ vẫn chọn thứ cũ kỹ. Đây là một người có tố chất rất kém. Có tố chất kém nghĩa là họ luôn không nhận ra tác động tích cực mà sự xuất hiện của những sự vật mới mẻ mang lại cho con người, không thể tìm thấy sự khác biệt giữa những thứ mới và cũ, luôn không khám phá được hoặc phát hiện ra những ưu điểm và tiến bộ của các sự vật mới mẻ cũng như nhược điểm và sự lạc hậu của những thứ cũ kỹ, luôn giữ vững những suy nghĩ và quan điểm cũ của mình; do đó, năng lực tiếp nhận của họ rất kém. Những người có năng lực tiếp nhận kém thì có tố chất kém. Những người có tố chất kém không thể nhìn thấu được thực chất hay gốc rễ của vấn đề, cho dù ngươi có giải thích thế nào đi nữa. Bộ phận những người có tố chất kém nhất thậm chí không thể gọi là có bất kỳ năng lực tiếp nhận nào – khi đối mặt với những sự vật mới mẻ, vấn đề không phải là họ có sẵn lòng học hỏi và tiếp nhận một cách chủ quan hay không; mà vấn đề là họ hoàn toàn vô cảm đối với các sự vật mới đó. Dù là trong cuộc sống thực tế hay trong việc làm bổn phận, bất kể những sự vật mới mẻ nào xuất hiện, những sự vật nào tiến bộ, hay những sự vật nào cải thiện, họ cũng đều không có cảm giác và không biết gì. Họ không biết về những điều này có phải là do không đọc tin tức hay báo chí không? Không phải, đó là vì tố chất của họ đơn giản là thiếu năng lực tiếp nhận. Cứ như thể họ không có cơ quan để tiếp nhận. Đối với sự xuất hiện của bất kỳ sự vật mới mẻ nào, họ đều tê dại, trì độn, và thiếu tri giác. Ngay cả khi họ sống trong một thành phố nhộn nhịp, thì cũng như thể họ đang sống trong một ngôi làng miền núi hẻo lánh. Họ hoàn toàn không biết về bất kỳ sự kiện lớn hay nhỏ nào xảy ra trong cuộc sống của nhân loại. Do đó, trong phạm vi cuộc sống của họ, không có bất kỳ sự vật mới mẻ nào có thể ảnh hưởng đến việc ăn, mặc, ở, và đi lại của họ. Họ giống như động vật vậy. Những thứ trong cảnh giới tư tưởng của họ chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ của những điều trong khuôn khổ đời sống của họ, những điều họ biết từ độ tuổi khi họ học cách nhìn nhận các sự vật khác nhau trên thế giới. Ngoài phạm vi đó ra, bất cứ điều gì từ thế giới bên ngoài đều không có ảnh hưởng gì đến họ cả, và họ không có hứng thú với chúng. Đây là loại người gì? Họ có phải bị thiểu năng trí tuệ không? (Thưa, phải.) Đương nhiên, những vấn đề chúng ta đang nói ở đây là những khía cạnh rất nhỏ nhặt và vụn vặt của cuộc sống hàng ngày, chứ không phải các vấn đề quốc gia hay tin tức lớn trên toàn cầu. Ngay cả sự xuất hiện của một sự vật mới mẻ nhỏ nhoi mà họ cũng không biết, không có bất kỳ mức độ tiếp nhận nào cả. “Sự tiếp nhận” này nói đến cách mà sự xuất hiện của một sự vật mới mẻ thay đổi suy nghĩ và quan điểm của họ, mang lại một số cải thiện cho cuộc sống của họ – bao gồm lối sống, thường thức cơ bản về cuộc sống, v.v. – và dẫn đến một số cải thiện, tiến bộ trong khả năng xử lý các vấn đề trong cuộc sống của họ. Những người không có năng lực tiếp nhận luôn duy trì lối sống theo thói quen và nguyên thủy. Ví dụ, người ta trước đây thường nói rằng đậu phụ hầm với rau bina là một món ăn tốt, cung cấp cả sắt và canxi, có người từ nhỏ đến lớn đều ăn theo cách đó. Sau đó, có người nói rằng các nhà nghiên cứu thực phẩm đã phát hiện ra rau bina có chứa axit oxalic, và ăn nó với đậu phụ trong thời gian dài có thể dễ dàng dẫn đến sự hình thành sỏi trong cơ thể. Nghe xong, người này nghĩ: “Axit oxalic là gì? Ai đã từng thấy axit oxalic trong rau bina chứ? Tôi ăn nhiều năm rồi mà đâu có gì xảy ra, cứ tiếp tục ăn thôi!”. Họ không tiếp nhận. Đây là người hoàn toàn không có mức độ tiếp nhận đối với những sự vật mới mẻ hoặc quan điểm mới. Ngược lại, những người có năng lực tiếp nhận, một khi xác định rằng rau bina có chứa axit oxalic, họ sẽ nghĩ cách loại bỏ axit oxalic, và thông qua việc tìm hiểu thêm về nó, họ phát hiện ra rằng việc chần rau bina trong nước sôi sẽ loại bỏ axit oxalic. Những người có năng lực tiếp nhận, khi nghe thông tin mới, sẽ thông qua việc tìm hiểu mà phân biệt tính xác thực của thông tin và liệu nó có lợi cho con người hay không, sau đó họ sẽ quyết định tiếp nhận hay từ chối nó. Họ sẽ đặt câu hỏi, tìm hiểu về các chi tiết liên quan, và sau đó áp dụng thông tin này vào cuộc sống thực tế, tránh những nhược điểm hoặc tác hại mà sự vật mới mẻ này gây ra cho con người. Ngược lại, những người hồ đồ hoàn toàn không có năng lực tiếp nhận, bất kể nghe thông tin mới nào, họ cũng không quan tâm hay tìm hiểu, mà trực tiếp từ chối, chỉ tuân giữ những thứ cũ kỹ, lỗi thời. Điều này cuối cùng quy về vấn đề tố chất của họ. Họ không biết nên tiếp cận thế nào với những sự vật mới mẻ, hoặc nên nắm bắt những nguyên tắc nào, cũng không cân nhắc xem nếu từ chối những sự vật mới mẻ thì sẽ gây ra hậu quả thế nào cho cuộc sống hoặc công việc của họ. Tóm lại, họ luôn mang thái độ nghi ngờ đối với những sự vật mới mẻ và thông tin mới, không dám tiếp nhận chúng. Những người như vậy có tố chất kém.

Những người có tố chất kém không thể độc lập giải quyết các vấn đề họ gặp phải trong cuộc sống, bất kể có phát sinh bao nhiêu vấn đề đi nữa. Những người như vậy thiếu năng lực sinh tồn độc lập. Bất kể là chuyện gì, tổ tiên ngày trước làm thế nào thì họ thừa hưởng cách làm ấy và vẫn liên tục làm y như vậy; họ không thay đổi bất cứ điều gì và khư khư cố chấp đến cùng. Nếu ngươi chỉ trích họ, nói rằng làm như vậy là không đúng, thì họ sẽ không nghe, thậm chí còn trở nên cực kỳ ngoan cố, cãi lý với ngươi: “Đây là cách mà tổ tiên chúng tôi truyền lại. Đời ông tôi và đời cha mẹ tôi đều làm theo cách này, và nó đã được lưu truyền lại như thế!”. Những thứ được lưu truyền lại có nhất thiết là đúng không? Họ không xem xét vấn đề này, điều đó chứng tỏ tố chất của họ kém. Nếu họ có tố chất của một người bình thường, họ sẽ suy nghĩ về vấn đề này. Khi nghe thông tin về những sự vật mới mẻ, họ sẽ thể hiện một mức độ tiếp nhận nhất định. Nếu họ không có những biểu hiện này, thì có nghĩa là họ không có mức độ tiếp nhận nào. Những người như vậy thiếu năng lực sinh tồn độc lập. Bất kể sống đến bao nhiêu tuổi, họ vẫn luôn nói: “Thời cha tôi là như thế này. Thời ông nội và cụ nội tôi là như thế này. Vậy nên, đến thế hệ của tôi, vẫn phải như thế này”. Những người này rõ ràng là những kẻ lão hủ, một khúc gỗ mục, thật bảo thủ! Họ không có năng lực tiếp nhận bất kỳ sự vật mới mẻ nào, điều đó cho thấy tố chất của họ rất kém. Bất kể ngươi giải thích sự tiên tiến của những sự vật mới mẻ như thế nào, họ cũng sẽ không tiếp nhận. Những người như vậy thiếu năng lực sinh tồn độc lập. Bề ngoài, họ có vẻ tự lo liệu được việc ăn, mặc, ở, đi lại, nhưng những cách thức và phương pháp họ vận dụng đều chẳng ra gì. Họ không thay đổi lối sống của mình để bắt kịp thời đại hay sự phát triển của các loại thường thức và tri thức mà nhân loại đã đạt được. Những người như vậy là những người có tố chất kém. Mặc dù họ không đói, không rét, và không mắc bệnh hiểm nghèo nào, nhưng xét từ quan điểm sinh tồn và lối sống của họ, những người như vậy chỉ sống một cách hồ đồ, và họ cũng có thể được xếp vào loại thiểu năng trí tuệ, kẻ ngốc, kẻ khờ. Một số người cảm thấy không thoải mái khi bị gọi là thiểu năng trí tuệ hay kẻ ngốc, nhưng dù họ không thoải mái thì sự việc vẫn là như vậy. Tố chất của họ thực sự kém như thế. Ta quả thực muốn nói điều gì đó khiến ngươi thoải mái, nhưng ngươi đơn giản là không có tố chất đó. Ngươi thiếu năng lực ở mọi phương diện và không có tư tưởng hay quan điểm đúng đắn, chính xác, phù hợp với tư duy của nhân tính bình thường đối với bất kỳ vấn đề nào. Đây chẳng phải là thiếu tố chất sao? Không gọi ngươi là đồ vô dụng đã là nhẹ nhàng lắm rồi. Loại người không có tố chất này chỉ cách người tàn tật về trí não một bước chân. Những người tàn tật về trí não thậm chí còn thiếu khả năng tự lo liệu, hoàn toàn dựa vào sự giúp đỡ của người khác. Đến bữa ăn, cha mẹ họ vẫn phải đút cho họ từng miếng một, và chính họ cũng không biết mình đã no hay chưa. Những người có tố chất kém là những người thiểu năng trí tuệ; họ là những kẻ ngốc, và chỉ cách người tàn tật về trí não một bước chân. Tố chất của họ kém đến mức đó. Ngươi nói xem, những người như vậy có đáng thương không? Có phải khá là khiến người ta bực mình không? Những người có tố chất kém không có năng lực học tập, không có năng lực hiểu biết, và không có năng lực lĩnh hội; lại càng không có năng lực tiếp nhận – họ không có năng lực ở bất kỳ phương diện nào. Bất kể ngươi giải thích hay đưa ra ví dụ cho họ như thế nào, họ vẫn không thể thông suốt hay nghe hiểu được. Đây chẳng phải là thiểu năng trí tuệ sao? Dù ngươi giải thích thế nào, họ cũng không thể hiểu được. Ngay cả khi ngươi nói rất rõ ràng và giải thích thấu đáo, họ vẫn không hiểu, thậm chí còn thấy những gì ngươi nói rất kỳ quặc. Họ đã không có tư duy của nhân tính bình thường mà còn đưa ra một bộ lý lẽ sai lầm để phản bác ngươi. Đối với những người như vậy, không có cách nào nói lý lẽ được; chỉ có thể tặng họ bốn chữ: “Bất chấp lý lẽ!”. Tố chất của họ kém đến mức này. Ngươi có thể không cảm thấy sốt ruột và bực mình với họ sao? Bất kể ngươi nói gì với những người như vậy thì cũng đều vô ích. Bất kể ngươi cố gắng khai sáng họ như thế nào, họ cũng không hiểu. Ngay cả một chuyện nhỏ, cũng phải mất cả ngày để khai sáng cho họ, ngươi mà nói sâu sắc hơn một chút thì họ sẽ không hiểu; ngươi phải dùng những từ ngữ nông cạn nhất và nói rất nhiều thì họ mới có thể hiểu. Ngay cả sau khi họ hiểu một chuyện, khi có vấn đề tương tự phát sinh, họ vẫn không hiểu. Đây chẳng phải là thiểu năng trí tuệ sao? Tuy nhiên, loại người thiểu năng trí tuệ này lại không nghĩ mình ngu ngốc. Họ nói: “Đừng tưởng tôi ngu. Anh đưa tôi mười đồng nhân dân tệ và mười đô la Mỹ, xem tôi chọn cái nào – tôi chắc chắn sẽ chọn đô la Mỹ chứ không chọn nhân dân tệ, vì tôi biết nó có giá trị hơn”. Người khác nói: “Anh vẫn ngu ngốc”. Tại sao người ta lại nói những người như vậy là ngu ngốc? Bởi vì một người bình thường sẽ không dùng ví dụ kiểu này để chứng minh mình không ngu ngốc, cũng không dùng một phương pháp thấp kém như vậy để chứng tỏ điều đó. Chính vì những người như vậy có tố chất cực kỳ kém, không có tiêu chuẩn để đánh giá bất kỳ con người, sự việc, hay sự vật nào, và không biết cách đánh giá chúng, nên họ không bao giờ cho rằng mình ngu ngốc. Những người thực sự tinh khôn, sau khi phấn đấu và vật lộn trong một nhóm người từ ba đến năm năm, sẽ nhận ra rằng trong bất kỳ nhóm nào, cũng có những người giỏi hơn mình, những người vượt qua mình. Họ luôn cảm thấy tố chất của mình không đủ tốt, năng lực và trí thông minh của mình không đủ. Họ luôn có thể phát hiện ra những thiếu sót của mình, nhận ra mình thua kém người khác ở đâu, và xác định được vấn đề của mình; họ luôn có thể nhìn thấy những điểm mạnh của người khác. Loại người này là người tinh khôn và có tố chất. Trong khi đó, những người không có tố chất khi sống trong một nhóm người thì luôn cảm thấy người khác thua kém mình. Họ thấy có người thậm chí không biết viết một vài chữ hoặc không biết đánh máy, nên họ coi thường rằng những người đó có tố chất kém. Họ dùng những việc nhỏ nhặt, không đáng kể mà bản thân có thể làm được để nhận định rằng tố chất của mình tốt. Cũng có những người, khi thấy người khác không chú trọng vệ sinh hoặc không biết cách ăn mặc đẹp, thì liền nói người đó có tố chất kém. Bản thân họ sạch sẽ hơn một chút, có thể ra vẻ tao nhã, hoặc có một số kiến thức và thế mạnh, nên họ cho rằng tố chất của mình tốt. Những người như vậy là tinh khôn hay ngu ngốc? Họ là những người ngu ngốc. Hãy để ý cách người tinh khôn nói chuyện: “Tại sao mình lại làm sai nữa rồi? Mình phát hiện bản thân thật ngu ngốc!”. Những người thường nói bản thân mình ngu ngốc và có thiếu sót mới là người thực sự tinh khôn. Những người không bao giờ thừa nhận mình ngu ngốc và luôn nói: “Anh tưởng tôi ngu à? Thử xin tiền tôi xem tôi có cho không!”. mới thực sự là ngu ngốc. Ngu ngốc, theo cách nói thông tục, gọi là “đần”. Họ có thể nói ra những lời ngu ngốc như vậy, đó chẳng phải là ngu ngốc sao? Chẳng phải là “đần” sao? (Thưa, phải.) Khi thấy ai đó có chút sai sót hay khuyết điểm, hoặc làm việc gì có sơ hở, họ liền cười sau lưng, nói: “Sao họ lại ngu ngốc thế nhỉ?”. Khi họ thấy ai đó đầy mưu mô tính toán và trục lợi, họ lại coi đó là tinh khôn và có tố chất tốt. Những người thực sự tinh khôn dựa trên các phương diện năng lực khác nhau của người ta mà đánh giá xem tố chất của họ là cao hay thấp, họ tinh khôn hay ngu ngốc. Còn những người ngu ngốc thì chỉ nhìn xem ai hay tính toán, trục lợi và luôn tránh thiệt thòi, ai giỏi mánh khóe để phục vụ bản thân, họ cho rằng những người như vậy đều tinh khôn và có tố chất tốt. Thực tế, những loại người này đều là những người ngu ngốc. Đánh giá tố chất của người ta cao hay thấp dựa trên mức độ tính toán của họ – bản thân những người như vậy mới chính là những kẻ ngu ngốc. Vừa rồi, chúng ta đã đề cập đến một trong những biểu hiện ngu ngốc nhất: Họ nói: “Anh đưa cho tôi mười đô la Mỹ và mười nhân dân tệ, xem tôi chọn cái nào. Tôi chắc chắn sẽ không chọn nhân dân tệ – đừng nghĩ rằng tôi không biết đô la Mỹ có giá trị hơn! Anh đưa cho tôi thịt và đậu phụ, xem tôi ăn cái nào. Anh tưởng tôi ngu đến mức ăn đậu phụ mà không ăn thịt à? Tôi biết thịt ngon hơn!”. Những người như vậy, thực tế, là những kẻ ngu ngốc. Nếu ngươi thực sự không muốn người khác thấy sự ngu ngốc của mình, ngươi tuyệt đối không nên dùng những ví dụ như vậy. Hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Người ngu ngốc có thường mắc phải sai lầm này không? (Thưa, có.) Họ thậm chí còn nghĩ: “Xem tôi giỏi đưa ra ví dụ chưa này! Thấy tôi có tinh khôn không? Anh nghĩ tôi ngu ngốc à? Anh mới là kẻ ngu ngốc đấy!”. Loại người ngu ngốc nhất là người liên tục toát ra sự ngu ngốc. Phần thông công về năng lực này – năng lực tiếp nhận – kết thúc tại đây.

Năng lực thứ năm là năng lực nhận thức. Năng lực nhận thức là nói đến điều gì? Chủ yếu là nhấn mạnh mức độ nhận thức của một người đối với bản thân sự vật. Để đánh giá năng lực nhận thức của một người, phải xem mức độ nhận thức của họ về một sự vật và khoảng thời gian họ cần để nhận thức được thực chất của sự vật đó. Nếu khoảng thời gian họ cần rất ngắn và mức độ nhận thức của họ đủ sâu, đạt đến mức độ nhận thức được thực chất của sự vật, thì họ có năng lực nhận thức. Nếu khoảng thời gian một người cần để nhận thức một sự vật nằm trong phạm vi bình thường, và họ có thể nhận thức được thực chất của bản thân sự vật này, có thể nhìn rõ đầu đuôi ngọn ngành, cũng như căn nguyên và thực chất của vấn đề bên trong, rồi trong lòng có sự nhận thức về sự vật này – và tốt hơn nữa, nếu họ có thể đưa ra định nghĩa và rút ra kết luận về sự vật này – thì đây gọi là có tố chất tốt. Nghĩa là, là một người bình thường có tư duy của nhân tính bình thường, bất kể ngươi là nam hay nữ, bất kể ngươi vừa mới thành niên hay đã bước vào tuổi trung niên hoặc lão niên, nếu ngươi nhận thức được thực chất của bản thân sự vật này trong phạm vi thời gian bình thường, thì tố chất của ngươi được coi là tốt. Nếu thời gian ngươi cần để nhận thức sự vật này vượt quá ba hoặc bốn lần so với người bình thường – nghĩa là, nếu một người có tố chất tốt cần ba ngày, nhưng ngươi thì cần mười ngày hoặc thậm chí một tháng – đợi đến khi ngươi hiểu được rõ ràng đầu đuôi ngọn ngành của sự việc này, tác hại cũng như hậu quả tiêu cực do nó gây ra cũng đã xuất hiện rồi, lúc đó ngươi mới nhận ra tính nghiêm trọng của sự việc này và căn nguyên cũng như thực chất của nó là gì, thì cùng lắm tố chất của ngươi chỉ ở mức trung bình. Nói cách khác, nếu sự việc này chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng nhưng một số hậu quả tiêu cực đã liên tục xuất hiện, và chỉ trong quá trình này ngươi mới dần dần nhận thức được căn nguyên và thực chất của sự việc này, rút ra được định nghĩa và kết luận, thì tố chất của ngươi được coi là trung bình. Nhưng nếu chỉ sau khi sự việc này đã dẫn đến hậu quả tiêu cực hoặc nghiêm trọng rồi, ngươi mới chợt tỉnh ngộ và hiểu được tính chất của sự việc này là gì, thì tố chất của ngươi quá kém. Nếu sự việc này đã gây ra hậu quả tiêu cực rồi mà ngươi vẫn không biết vấn đề trong sự việc này là gì hoặc căn nguyên của vấn đề là gì, vẫn không thể đưa ra kết luận về nó, vậy thì ngươi không có tố chất. Năng lực nhận thức được phân thành bốn cấp độ này. Đầu tiên là những người có tố chất tốt. Nghĩa là, khi một sự việc vừa mới phát sinh và yêu cầu ngươi phải lập tức đưa ra kết luận trong vòng vài giờ – đây là một tình huống khẩn cấp, nếu ngươi không kịp thời đưa ra phán đoán, đề ra phương án xử lý và giải quyết sự việc, hoặc thậm chí nghĩ ra phương án hạn chế thiệt hại để ngăn chặn nó phát triển thêm, thì sẽ có hậu quả tiêu cực – nếu trong khoảng thời gian đó, ngươi có thể nhận thức được căn nguyên của sự việc, có thể lập tức và dứt khoát đưa ra phán đoán chính xác, đưa ra quyết định và kết luận một cách chính xác, rồi sau đó đề ra phương án xử lý hợp lý, như vậy là ngươi có tố chất tốt. Tuy nhiên, nếu ngươi chỉ cảm thấy chuyện này có chút vấn đề, nhưng không biết vấn đề nằm ở đâu hoặc căn nguyên của nó là gì, và trong khoảng thời gian bình thường để xử lý sự việc này, ngươi không có kết luận, phán đoán, hay phương án xử lý nào. Thay vào đó, ngươi chỉ biết bị động chờ đợi và quan sát sự phát triển thêm của nó, và chỉ thông qua sự phát triển thêm của nó, ngươi mới cố gắng xác định xem thực chất của sự việc này thực sự là gì và đưa ra một phán đoán chưa thật chính xác, sau đó tiếp tục chờ đợi và quan sát. Trước khi sự việc đã phát triển hoàn toàn, ngươi cũng có thể miễn cưỡng nhìn thấu được thực chất của vấn đề hoặc miễn cưỡng nghĩ ra một phương án giải quyết, nhưng cách xử lý của ngươi vẫn không kịp thời. Nếu vậy thì tố chất của ngươi rất trung bình. Nếu sự việc này đã phát triển hoàn toàn và hậu quả đã xuất hiện, thực chất của vấn đề đã hoàn toàn lộ ra, chỉ lúc đó ngươi mới nhận ra rằng sự việc này là xấu, mới thấy được căn nguyên sâu xa của nó là gì – hoặc thậm chí không hề thấy được căn nguyên mà chỉ đơn giản là bị động chịu đựng hoặc đối mặt với hậu quả cuối cùng của nó – vậy thì ngươi là người có tố chất kém. Một biểu hiện khác của những người có tố chất kém là nếu những sự việc như vậy xảy ra lần nữa, họ vẫn có cùng thái độ, cùng phương pháp xử lý, và xử lý với cùng tốc độ đó. Nghĩa là, mỗi khi những sự việc như vậy xảy ra, họ luôn xử lý chúng theo cùng một cách, với cùng tốc độ và hiệu suất đó. Bất kể xảy ra bao nhiêu chuyện, họ cũng không thể phân định được thực chất của chúng, cũng không theo đó mà thay đổi bất kỳ quan điểm hay cách nhìn nào của họ về các vấn đề thế gian. Đây là những người có tố chất kém. Chính vì họ là những người có tố chất kém, nên họ không có năng lực sống độc lập; nghĩa là, họ không có quan điểm sinh tồn hay nhân sinh quan. Như vậy là có tố chất kém. Biểu hiện của những người không có tố chất là thế này: Khi một sự việc đã xảy ra, và thậm chí hậu quả có thể đã xuất hiện, họ vẫn không biết đã xảy ra chuyện gì, như thể đang mơ vậy. Đây là không có tố chất và không có năng lực nhận thức. Ngươi hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Năng lực nhận thức chủ yếu nói đến việc nhận thức được thực chất của các loại người và sự việc, cũng như căn nguyên vấn đề của chúng; đây chính là năng lực nhận thức của con người. Có nghĩa là khi ngươi thấy những biểu hiện, bộc lộ, và nhân tính của một loại người nào đó, ngươi có thể biết những vấn đề họ đang đối mặt, căn nguyên vấn đề của họ trong hoàn cảnh họ sống là gì, cũng như thực chất của những sự việc mà ngươi đang quan sát là gì và căn nguyên của vấn đề bên trong chúng nằm ở đâu. Năng lực nhận thức chủ yếu chỉ hai phương diện: nhìn thấu thực chất của con người, sự việc, sự vật, và nhìn thấu căn nguyên vấn đề của chúng. Còn ai hiểu gì khác về năng lực nhận thức nữa không? Có ai hiểu nó là năng lực hiểu biết tri thức và học hỏi tri thức không? (Thưa, không.) Năng lực nhận thức mà chúng ta đang nói đến chủ yếu liên quan đến năng lực nhìn nhận con người và sự việc. Nếu tiêu chuẩn mà ngươi dùng để nhìn nhận con người và sự việc rất thấp, nhận thức của ngươi rất nông cạn, hoặc ngươi không thể hiểu được thực chất của bất kỳ con người, sự việc, hay sự vật nào, thì năng lực nhận thức của ngươi rất kém, hoặc thậm chí không tồn tại. Nếu bất kể những người xung quanh ngươi bày tỏ bao nhiêu lời nói rõ ràng là sai lầm hoặc quan điểm sai trái, có bao nhiêu hành động sai trái, hoặc bộc lộ bao nhiêu sự bại hoại rõ ràng, mà ngươi vẫn không thể phát hiện ra thực chất của vấn đề, không biết họ là loại người nào, có phải là người đúng đắn không, có phải là người mưu cầu lẽ thật không, phẩm chất nhân tính của họ như thế nào, hoặc thực chất của những người như vậy là gì – nếu ngươi không biết bất cứ điều nào trong số này – thì ngươi không có năng lực nhận thức. Khi đối mặt với bất kỳ con người hay sự việc nào, ngươi không có tiêu chuẩn để đánh giá. Sau khi sự việc đã qua, ngươi không có kết luận nào về thực chất của những vấn đề như vậy, càng không có sự hiểu biết nào về nó; và, dĩ nhiên, ngươi không có nguyên tắc để xử lý những sự việc như vậy, cũng không có con đường thực hành – đây chính là không có năng lực nhận thức. Năng lực nhận thức chủ yếu chỉ khả năng nhận thức của một người về con người, sự việc, và sự vật. Phần này kết thúc tại đây.

Điều thứ sáu là năng lực phán đoán. Năng lực phán đoán chính là khi gặp phải một sự việc, ngươi có thể phán định được sự việc đó là đúng hay sai, phải hay trái, là chính diện hay phản diện, rồi thông qua sự phán đoán của mình mà xác định cách đối đãi và xử lý thích hợp. Thông thường khi một người gặp phải chuyện gì đó, bất kể là chuyện đã thấy qua chưa, đã trải qua hay chưa, bất kể chuyện đó tương đối chính diện hay tương đối phản diện, thì người ta nên có thái độ như thế nào khi đối đãi với nó? Nên cự tuyệt hay nên hùa theo và tiếp nhận? Nếu sau khi nhìn rõ ràng rồi mà ngươi có được lập trường của riêng mình, có quan điểm chính xác và phù hợp với nguyên tắc lẽ thật, thì chứng tỏ ngươi có năng lực phán đoán. Ví dụ, khi ngươi nghe ai đó nói một câu, sau khi suy nghĩ, ngươi có thể xác định được câu nói đó có ý nghĩa gì, mục đích mà người nói muốn đạt được là gì, tại sao họ lại nói những lời đó, tại sao họ lại dùng lời lẽ và giọng điệu như vậy, tại sao họ lại có ánh mắt đó khi nói. Ngươi có thể nhìn ra dụng tâm, mục đích và động cơ ẩn giấu đằng sau. Bất kể sau đó ngươi xử lý những dụng tâm và động cơ ẩn giấu này như thế nào, thì ngươi cũng có thể nhìn ra một vài vấn đề ẩn giấu đằng sau sự việc xảy ra ngay tại chỗ. Ngươi biết họ muốn làm gì, tại sao họ muốn làm như vậy, mục đích mà họ muốn đạt được, tác dụng mà họ muốn lời nói của mình đạt được, cũng như những thủ đoạn và âm mưu quỷ kế trong đó. Ngươi có thể nhìn ra được một vài manh mối, ý thức được rằng vấn đề ở đây không phải là một vấn đề bình thường, thậm chí trong lòng ngươi còn có sự cảnh giác. Điều này chứng tỏ ngươi có năng lực phán đoán. Nếu ngươi có năng lực phán đoán, điều này có nghĩa ngươi là người có tố chất tốt. Bất kể lời nói của ai đó nghe hay đến đâu, về mặt đạo lý có phù hợp với lẽ thật đến đâu, thái độ của họ có vẻ đoan chính đến đâu trong mắt người khác, hay mục đích của họ được che giấu sâu đến đâu, ngươi vẫn có thể phán đoán được vấn đề thông qua những sự bộc lộ và hiện tượng bên ngoài, hoặc những gì họ nói – điều này chứng tỏ ngươi có tố chất tốt và ngươi có năng lực phán đoán. Ví dụ, khi gặp phải chuyện gì đó, bất kể chuyện đó đã phát triển đến mức độ nào, chỉ cần tìm hiểu quá trình của sự việc là ngươi có thể nhìn thấu được thực chất và căn nguyên của vấn đề. Đây là có năng lực phán đoán. Chẳng hạn, trong hội thánh, khi có những kẻ địch lại Đấng Christ và kẻ ác gây nhiễu loạn và gián đoạn, về việc ai trong số những người này là chủ mưu, ai là tùy tùng, ai đóng vai trò chính trong chuyện này, ai là người bị động, cũng như bản thân chuyện này sẽ có ảnh hưởng như thế nào đối với con người, và những hậu quả bất lợi nào sẽ phát sinh nếu chuyện này tiếp tục phát triển, ngươi chỉ cần tìm hiểu tình hình cơ bản của sự việc là sẽ có thể phán đoán được toàn bộ cục diện. Ngay cả khi sự phán đoán của ngươi lúc đó có một mức độ chênh lệch nhất định so với kết quả cuối cùng của sự việc, thì ít nhất ngươi cũng có quan điểm, thái độ và nguyên tắc xử lý chính xác đối với chuyện này. Điều này đủ để chứng tỏ ngươi có năng lực phán đoán đối với chuyện này. Nghĩa là, ngươi có năng lực phán đoán ai là kẻ chủ mưu hay kẻ xúi giục của một sự việc, hoặc sự việc này sẽ phát triển đến mức độ nào trong tương lai, ngươi nên dùng thái độ và nguyên tắc nào để đối đãi với nó và ngăn chặn nó gây ra hậu quả bất lợi. Chỉ cần ngươi có năng lực phán đoán, lô-gíc và phương thức phán đoán của ngươi là đúng đắn, và căn cứ phán đoán của ngươi ít nhất là phù hợp với nhân tính, tốt hơn nữa là phù hợp với nguyên tắc lẽ thật, thì điều này chứng tỏ ngươi có năng lực phán đoán. Ngay cả khi sự phán đoán của ngươi có một mức độ chênh lệch nhất định so với bản thân sự việc, chỉ cần sự phán đoán của ngươi có căn cứ, phù hợp với quy luật phát triển của chính sự việc, cũng như phù hợp với căn nguyên và thực chất của những vấn đề tương tự và tương đồng – hơn nữa là phù hợp với nguyên tắc lẽ thật – thì cũng có thể nói rằng ngươi có năng lực phán đoán. Có năng lực phán đoán chứng tỏ ngươi biết suy ngẫm vấn đề. Nếu sự phán đoán của ngươi phù hợp với căn nguyên, thực chất và mọi phương diện khác của bản thân sự việc, thì điều đó chứng tỏ ngươi là người có tố chất tốt.

Bất kể gặp phải người hay việc gì, chỉ khi có tư duy đúng đắn, và chỉ trên tiền đề phán đoán được một sự việc là đúng hay sai, phải hay trái, chính diện hay phản diện, thì người ta mới có thể có phương án xử lý và giải quyết tiếp theo. Nếu một người không biết suy ngẫm vấn đề – nói cụ thể là, nếu họ không thể phán đoán vấn đề – thì họ cũng không thể xử lý vấn đề, nghĩa là họ thiếu năng lực xử lý vấn đề. Bất kỳ ai xử lý vấn đề cũng đều xử lý dựa trên tiền đề phán đoán được một sự việc là đúng hay sai; nếu không, phương án giải quyết vấn đề và con đường thực hành của họ sẽ thiếu căn cứ. Ví dụ, có người phản ánh với ngươi rằng ở một hội thánh nọ, đời sống hội thánh không tốt; đa số mọi người đều tiêu cực và lãnh đạm, không sẵn lòng nhóm họp hay làm bổn phận. Ngươi phán đoán hiện tượng như vậy thế nào? Đây có phải là một vấn đề đời thực không? (Thưa, phải.) Nếu đã là một vấn đề đời thực, thì ngươi cần phải đưa ra một phương án thực hành cụ thể để xử lý và giải quyết nó. Trước khi giải quyết vấn đề, chẳng phải ngươi cần phải phán đoán xem căn nguyên và thực chất của vấn đề này là gì, và vấn đề nằm ở những người nào sao? Chẳng phải ngươi cần phải phán đoán những điều này sao? (Thưa, phải.) Chỉ thông qua suy ngẫm thì ngươi mới có thể phán đoán, và chỉ sau khi phán đoán thì ngươi mới có thể xác định được căn nguyên của vấn đề, dựa trên căn nguyên và thực chất của vấn đề thì ngươi mới có thể xác định được những phương pháp xử lý và phương án giải quyết thích hợp, thỏa đáng. Nếu ngươi biết được rằng đời sống hội thánh ở một hội thánh nọ không tốt nhưng không biết lý do tại sao, thì ngươi sẽ làm thế nào để phán đoán căn nguyên của vấn đề nằm ở đâu? (Thưa, con sẽ nghĩ ngay rằng vấn đề này có liên quan trực tiếp đến lãnh đạo hội thánh. Nếu lãnh đạo hội thánh không có hiểu biết thuộc linh, đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm nhưng không hiểu lẽ thật, không thể xử lý bất kỳ vấn đề nào họ gặp phải, và không biết cách dẫn dắt dân được Đức Chúa Trời chọn ăn uống lời Đức Chúa Trời hay thông công về lẽ thật, thì hội thánh có một lãnh đạo giả như vậy chắc chắn sẽ không có đời sống hội thánh tốt.) Đây là một phán đoán. Thông thường, đối với những vấn đề đơn giản, nếu một phán đoán là chính xác, thì nó có thể cho phép ngươi nắm bắt được căn nguyên của vấn đề. Tuy nhiên, có một số vấn đề rất phức tạp, và nếu thông tin mà ngươi hiểu không đầy đủ, thì có khả năng là một phán đoán duy nhất của ngươi sẽ không cho phép ngươi nắm bắt được căn nguyên vấn đề. Vậy, có phải là còn phán đoán thứ hai và thứ ba không? (Thưa, phải.) Sau khi có ba phán đoán, có khả năng một trong số đó là chính xác nhất. Vậy các ngươi có thể nghĩ ra những phán đoán nào khác không? (Thưa, điều con có thể nghĩ đến là những người trong hội thánh này nói chung có tố chất kém và năng lực lĩnh hội lẽ thật kém, họ không yêu thích lẽ thật. Đó là lý do tại sao kết quả của đời sống hội thánh ở đó kém.) Điều này có phù hợp với thực tế tình hình không? Đây là phán đoán thứ hai. Còn phán đoán nào khác không? (Thưa, con cũng sẽ nghĩ đến việc liệu có kẻ ác nào đang gây nhiễu loạn hội thánh này không.) Đây là phán đoán thứ ba. Trong ba phán đoán này, phán đoán nào phù hợp với tình hình thực tế hơn và thực tế hơn, còn phán đoán nào là trống rỗng? (Thưa, con cảm thấy phán đoán thứ hai có phần trống rỗng. Thực ra, nếu hội thánh có một người thích hợp làm lãnh đạo phụ trách công tác, thì kết quả của đời sống hội thánh sẽ tốt. Thông qua việc ăn uống lời Đức Chúa Trời và hiểu lẽ thật, các anh chị em chắc chắn sẽ có động lực để làm bổn phận của mình. Con cảm thấy phán đoán thứ nhất và thứ ba thực tế hơn.) Phán đoán thứ hai là đạo lý trống rỗng. Phán đoán thứ nhất và thứ ba phù hợp với tình hình thực tế và là chính xác. Một mặt, hai phán đoán này vận dụng tư duy lô-gíc; mặt khác, chúng dựa trên một số hiện tượng thường thấy trong cuộc sống thực tế. Nếu ngươi có thể nắm bắt được những hiện tượng phổ biến, điều đó chứng tỏ tư duy của ngươi là đúng đắn và phù hợp với lô-gíc. Nếu ngươi không thể nắm bắt được tình hình thực tế, và sự phán đoán của ngươi bị tách rời khỏi cuộc sống thực tế, điều đó chứng tỏ tư duy của ngươi thiếu lô-gíc và có vấn đề, ngươi nhìn nhận vấn đề một cách không thực tế, không khách quan. Phán đoán thứ nhất và thứ ba là khách quan. Một tình huống có thể là lãnh đạo hội thánh không biết cách làm công tác. Bản thân họ không có con đường trong lối vào sự sống, nên họ lại càng không có con đường khi dẫn dắt hội thánh và các anh chị em. Kết quả là, đời sống hội thánh ở đó không được cải thiện. Thực ra, đa số mọi người trong hội thánh đều thật lòng tin Đức Chúa Trời và có động lực, nhưng đời sống hội thánh không thực sự mang lại kết quả nào. Mỗi buổi nhóm họp đều theo các bước tuần tự: hát, cầu nguyện, đọc lời Đức Chúa Trời, và sau đó lãnh đạo hoặc chấp sự chia sẻ một số hiểu biết hoặc đạo lý nông cạn. Rất ít người ở đó có thể nói ra nhận thức trải nghiệm chân thực. Thêm vào đó, lãnh đạo hội thánh có tố chất kém và kinh nghiệm nông cạn, không thể thông công lẽ thật để giải quyết vấn đề. Đời sống hội thánh do đó có vẻ buồn tẻ và không thú vị. Đã có nhiều buổi nhóm họp nhưng không ai thu hoạch được gì, nên đa số mọi người cảm thấy việc tham dự những buổi nhóm họp như vậy không lợi ích bằng việc đọc lời Đức Chúa Trời ở nhà, vì thế họ không sẵn lòng tham dự. Một số người, sau khi tin Đức Chúa Trời được một hoặc hai năm và hiểu một số lẽ thật, thì muốn làm bổn phận. Tuy nhiên, một số lãnh đạo hội thánh không biết người nào phù hợp với bổn phận nào hoặc phù hợp với loại công tác nào. Họ không thể sắp xếp người hoặc dùng người một cách hợp lý, cũng không thể dùng trải nghiệm của mình để nâng đỡ người ta và giúp người ta làm tốt bổn phận. Điều này có thể dẫn đến việc một số người trở nên tiêu cực và không sẵn lòng làm bổn phận. Thực ra, đa số những người sẵn lòng làm bổn phận đều có thể làm tốt bổn phận của mình; họ chỉ thiếu sự nâng đỡ và trợ giúp. Nếu các lãnh đạo và chấp sự hội thánh có thể nâng đỡ và trợ giúp mọi người theo lời Đức Chúa Trời, thì số người trong hội thánh sẵn lòng làm bổn phận sẽ tăng lên, họ sẽ có thể làm bổn phận của mình một cách bình thường. Chính vì các lãnh đạo và chấp sự hội thánh không biết cách làm công tác, nên đời sống hội thánh mới có kết quả kém và một số vấn đề quá lâu không được giải quyết, sau một thời gian thì nhiều người trở nên tiêu cực và không còn chút động lực nào nữa; điều này ảnh hưởng đến việc dân được Đức Chúa Trời chọn thực hiện bổn phận. Nếu kết quả của đời sống hội thánh kém, điều này chủ yếu là do các lãnh đạo và chấp sự hội thánh không biết cách làm công tác hội thánh. Đây là một tình huống. Một tình huống khác là có những kẻ địch lại Đấng Christ và kẻ ác nắm quyền và gây nhiễu loạn trong hội thánh, điều này thỉnh thoảng vẫn xảy ra. Khi các lãnh đạo hội thánh không biết cách làm công tác, đồng thời có những kẻ địch lại Đấng Christ và kẻ ác nắm quyền, liên tục kéo bè kết phái, thiết lập các vương quốc độc lập, trừng trị và đàn áp người khác, dẫn đến việc một số anh chị em thật lòng tin Đức Chúa Trời và sẵn lòng làm bổn phận bị đàn áp, trừng trị, loại trừ. Họ muốn làm bổn phận nhưng không có cơ hội, khiến họ tiêu cực và yếu đuối. Những người thật lòng tin Đức Chúa Trời này không có sự hưởng thụ khi nhóm họp với những kẻ địch lại Đấng Christ và bè lũ của chúng. Những kẻ địch lại Đấng Christ luôn muốn nắm quyền và thiết lập bản thân. Khi những người thật lòng tin Đức Chúa Trời tham gia các buổi nhóm họp, họ muốn hiểu thêm về lẽ thật và chia sẻ trải nghiệm của mình, nhưng những kẻ địch lại Đấng Christ lại đàn áp họ và không cho họ cơ hội. Kết quả là, đời sống hội thánh trở nên hỗn loạn; mọi người tan rã trong sự hỗn loạn và các buổi nhóm họp không còn sự tận hưởng nữa. Chút nhiệt tình và tình yêu thương ít ỏi mà mọi người có cũng mất đi, họ không còn muốn làm bổn phận nữa. Kết quả kém của đời sống hội thánh có thể là do hai lý do này. Đây là những gì các ngươi có thể nghĩ đến và phán đoán. Nếu kết luận mà ngươi đạt được thông qua phán đoán có liên quan đến tình hình thực tế, ngay cả khi nó chỉ liên quan một phần hoặc chỉ xác định được một vấn đề có thể xuất hiện, thì đây vẫn là một biểu hiện của việc có năng lực phán đoán. Ít nhất, kết luận và ý kiến mà ngươi đạt được thông qua phán đoán có liên quan đến tình hình thực tế, chứ không phải là đạo lý, trống rỗng, hoặc một thứ không bao giờ tồn tại. Điều này chứng tỏ ngươi có năng lực phán đoán. Nếu những kết luận mà ngươi rút ra về mọi vấn đề không phù hợp với quy luật phát triển bình thường của sự việc, cũng không phù hợp với cách mà bất kỳ vấn đề nào trong cuộc sống thực tế diễn ra, mà hoàn toàn là do tưởng tượng, trống rỗng, không thực tế, không đúng sự thật, không có mối liên hệ nào với các tình huống thực tế, thì điều này có nghĩa là ngươi không có năng lực phán đoán hoặc thường xuyên mắc lỗi trong phán đoán. Vậy còn phán đoán thứ hai mà các ngươi đã đề cập trước đó, rằng kết quả kém của đời sống hội thánh là do những người trong hội thánh này có tố chất kém và không yêu thích lẽ thật – đây là loại phán đoán gì? (Thưa, đó là một sai lầm trong phán đoán.) Đây được gọi là mắc sai lầm trong phán đoán. Nếu ngươi không nhìn thấu các tình huống thường xuyên xảy ra với những vấn đề như vậy – tức là một vài tình huống có khả năng xảy ra nhất – và ngươi chỉ phán đoán ra một tình huống, hoặc ngươi có thể nghĩ đến các tình huống có thể xảy ra nhưng cũng nghĩ đến các tình huống không thể xảy ra, thì điều này chứng tỏ điều gì? Nó chứng tỏ rằng năng lực phán đoán của ngươi ở mức trung bình. Một người có năng lực phán đoán ở mức trung bình thì có chút suy nghĩ về một sự việc, nhưng lại không thể chắc chắn. Trong những trường hợp như vậy, sự phán đoán mà họ đưa ra là không chính xác. Nếu sự phán đoán của một người đôi khi đúng và đôi khi sai, có lúc phù hợp với tình hình thực tế và có lúc không phù hợp, nhưng những lần phán đoán không chính xác lại tương đối thường xuyên hơn, thì điều này cho thấy năng lực phán đoán của họ kém. Giả sử họ phán đoán ra những kết luận hoàn toàn trống rỗng, hoàn toàn không phù hợp với quy luật phát triển của sự việc, thậm chí càng không phù hợp với các hiện tượng phổ biến hoặc thường xuyên xảy ra, hoàn toàn không liên quan đến sự thật. Sự phán đoán của họ không gì khác hơn là những ảo tưởng, không có mối liên hệ nào với quy luật phát triển của sự việc hoặc với bản thân thực chất nhân tính, hoàn toàn không ăn nhập với bối cảnh cuộc sống thực tế và môi trường xung quanh. Nghĩa là, giả sử phán đoán của họ xa rời thực tế – những gì họ phán đoán không bao giờ có thể xảy ra trong đời sống thực tế, và những gì họ nói hoàn toàn không phải là thực chất của vấn đề. Nếu vậy thì người này không có năng lực phán đoán.

Để đánh giá một người có năng lực phán đoán hay không, chủ yếu là nhìn xem sự phán đoán của họ đối với các loại người và các loại sự việc có chính xác hay không. Ví dụ, ngươi thấy một người không biết vì sao mà khóc, trông người đó khóc rất tủi thân, rất đau lòng, còn thỉnh thoảng cầu nguyện, đọc lời Đức Chúa Trời, ai nói chuyện với họ họ cũng không trả lời. Bảo ngươi phán đoán xem người này bị làm sao, ngươi nói: “Anh ấy có thể là nhớ nhà rồi, vì trước đó một thời gian mẹ anh ấy bị bệnh, nên anh ấy muốn về nhà”. Phán đoán như vậy có chính xác không? Có người nói: “Anh ấy có thể đang tiêu cực. Đa số những lúc người ta khóc là vì tình cảm bị tổn thương, ví dụ như bị người khác ức hiếp hoặc bị lừa gạt thì sẽ khóc, khi gặp chuyện ấm ức thì họ luôn khóc, không muốn nói chuyện với người khác, không muốn tiếp xúc với người khác, đây là biểu hiện của sự tiêu cực”. Lại có người phán đoán rằng: “Trước đây người đó thường ra ngoài rao truyền phúc âm, làm bổn phận, bây giờ ở trong nhà làm bổn phận một thời gian dài có thể không quen, cảm thấy bức bối”. Vậy còn có khả năng nào khác không? Có người nói: “Có thể là hôm qua anh ấy không được ăn thịt, cảm thấy tủi thân nên khóc”. Còn có người nói: “Hôm qua anh ấy đến tìm tôi nói chuyện, tôi tưởng anh ấy chỉ đi ngang qua nên liếc nhìn một cái mà không nói gì, có phải anh ấy giận rồi không? Có phải vì chuyện này mà khóc không?”. Làm thế nào để phán đoán cho phù hợp với thực tình? Chuyện này có dễ phán đoán không? (Thưa, có thể phán đoán được một vài điều. Như mấy nguyên nhân đã nói ở trên, nhớ nhà hoặc tình cảm bị tổn thương, hoặc tâm trạng u uất, bức bối, người có những tình trạng này thì đều có thể sẽ khóc, nhưng những chuyện nhỏ như không được ăn thịt, nói chuyện với người khác mà bị ngó lơ thì không đến mức phải khóc.) Những nguyên nhân nào có thể khiến người ta khóc nức nở? Uất ức, đau lòng, nhớ nhung, còn có cảm giác mắc nợ. Vậy thì ngươi nên hỏi người đó: “Tại sao anh lại khóc? Anh bị uất ức đau lòng nên khóc, hay là vì phản tỉnh bản thân cảm thấy mắc nợ Đức Chúa Trời quá nhiều mà khóc?”. Ngươi cứ trò chuyện tâm tình với người đó như vậy là biết ngay. Tóm lại, không thể nào là vì ăn không ngon, không được ăn thịt mà khóc, cũng không thể nào là vì người khác không để ý đến hoặc lườm nguýt họ mà họ sẽ khóc. Đương nhiên trong tình huống thông thường, chịu chút khổ cũng sẽ không khóc, thỉnh thoảng tâm trạng không tốt cũng sẽ không khóc, những chuyện có thể khiến người ta khóc thường là mấy tình huống vừa kể lúc nãy. Dựa vào mấy tình huống thông thường ấy để phán đoán xem nguyên nhân người đó khóc rốt cuộc là gì, rồi lại dựa vào biểu hiện nhất quán thường ngày của người đó – chẳng hạn như việc người đó thường không khóc trừ khi gặp chuyện buồn hoặc chuyện chạm đến nỗi đau, không dễ dàng rơi lệ, và chỉ khóc khi nói về những chuyện đặc biệt phiền lòng hoặc chạm đến sâu thẳm tâm hồn, hoặc khi đã làm sai chuyện gì đó hoặc phạm phải sai lầm lớn và cảm thấy mắc nợ Đức Chúa Trời – bằng cách phán đoán dựa trên bối cảnh này, ngươi có thể gần như biết được tại sao người đó khóc. Một tình huống là người đó sẽ khóc nếu người thân bị bệnh nặng hoặc qua đời, một tình huống khác là nếu bản thân họ mắc bệnh nặng và cảm thấy đau khổ. Hoặc là, người đó có thể khóc vì đã làm sai chuyện gì đó và vì thế mắc phải vi phạm, cảm thấy mắc nợ Đức Chúa Trời, muốn cố gắng hết sức để xoay chuyển nhưng bản thân lại có sự yếu đuối không vượt qua được; khi những cảm xúc phức tạp này xen lẫn vào nhau thì mới khóc. Những phán đoán này đều tương đối phù hợp với thực tình. Bằng cách phán đoán dựa trên biểu hiện nhất quán của người đó và cả đặc trưng tính cách của người đó, ngươi có thể biết được căn nguyên hiện tại người đó khóc là gì. Như vậy, phán đoán sẽ tương đối chính xác hơn. Khi ngươi một mặt hiểu rõ vóc giạc của loại người này cùng những vấn đề họ đang gặp phải, mặt khác hiểu rõ những khiếm khuyết của chính nhân tính họ, cũng như một vài sự bại hoại, yếu đuối mà họ thường bộc lộ, thì ngươi có thể cơ bản khoanh vùng phạm vi, rồi từ trong phạm vi đó mà phán đoán ra căn nguyên vấn đề của người này. Phán đoán như vậy sẽ tương đối chính xác.

Về các biểu hiện của những người có tố chất tốt, tố chất trung bình và tố chất kém trong phương diện năng lực phán đoán, có phải chúng ta đã thông công xong rồi không? (Thưa, phải.) Ngoài ra, còn có một loại người có tố chất kém nhất; loại người này bất kể xảy ra chuyện gì hoặc thấy người khác làm chuyện gì, họ đều không biết phán đoán. Tại sao không biết phán đoán? Bởi vì tố chất của họ rất kém, không có năng lực phán đoán, họ không biết phán đoán như thế nào. Ví dụ, giả sử họ nghe ai đó nói một câu tiêu cực. Về chuyện thực chất và tính chất của câu nói tiêu cực này là gì, họ không biết dựa vào đâu để phán đoán, cũng không có manh mối. Đây chính là không biết suy ngẫm vấn đề, không biết phán đoán sự việc. Khi họ thấy ai đó làm một việc, họ không thể phán đoán tính chất của việc này là gì, hoặc nhân phẩm của người này như thế nào dựa trên thực chất của sự việc; họ không biết phán đoán những điều này dựa trên kinh nghiệm làm người của mình, lại càng không biết dựa trên lời Đức Chúa Trời. Do đó, họ không có năng lực phán đoán. Căn nguyên của việc không thể phán đoán sự việc là gì? Chính là loại người này không biết suy ngẫm vấn đề; khi nhìn nhận con người và sự việc, họ không biết nên nhìn vào phương diện nào của chúng, nhìn nhận chúng như thế nào, hoặc dựa trên cơ sở nào để nhìn nhận, cũng không biết sau đó nên rút ra kết luận gì, rút ra kết luận như thế nào, hoặc làm sao để đối đãi và xử lý loại người hay sự việc này một khi họ đã đi đến kết luận. Đầu óc của họ hoặc là trống rỗng hoặc là mờ mịt. Đây là thiếu năng lực phán đoán. Vấn đề chính của những người thiếu năng lực phán đoán là họ không hiểu và không nắm được bất kỳ nguyên tắc nào, thậm chí họ còn thiếu kinh nghiệm làm người. Do đó, khi họ tiếp xúc với các loại người khác nhau, họ không biết loại người nào đáng để kết giao và loại người nào không đáng; họ không biết người nào là người tương đối lương thiện và có vài điểm mạnh để họ học hỏi nhằm bù đắp cho những thiếu sót của mình, cũng như có thể giúp đỡ và mang lại lợi ích cho họ; loại người nào có thể chịu đựng và miễn cưỡng chung sống; loại người nào có nhân tính cực kỳ tà ác đến nỗi việc kết giao với họ có thể dễ dàng gây ra rắc rối hoặc thị phi, và do đó nên giữ khoảng cách – họ không biết gì về tất cả những điều này. Tóm lại, những người thiếu năng lực phán đoán này không biết gì cả và không thể phán đoán bất kỳ người hay việc nào. Nhưng họ cũng có cách làm riêng của mình, một quy tắc cố định mà họ tuân theo. Họ nói: “Bất kể xử lý công việc hay nói chuyện với ai, tôi cũng đều đùa cợt cho qua chuyện. Tôi không có lòng thù địch với bất kỳ ai. Dù họ là người tốt hay người xấu, dù họ thật lòng tin Đức Chúa Trời hay không tin, dù họ yêu thích lẽ thật hay chán ghét lẽ thật – tôi đều chung sống với họ, và tôi không đắc tội với ai cả. Khi thấy kẻ ác thì tôi tránh họ; khi thấy người thật thà thì tôi ức hiếp họ”. Đây chính là lô-gíc ma quỷ của họ. Họ không biết nên kết giao với loại người nào, nên giữ khoảng cách với loại người nào, và loại người nào không bao giờ nên kết giao hay giao thiệp. Họ không áp dụng chút phân định nào và họ coi mọi người đều như nhau, đối xử với tất cả mọi người một cách đồng nhất. Bất kể là ai, miễn là họ không có thiện cảm với người đó thì họ sẽ coi người đó là người ngoài hoặc kẻ thù. Bất kể một người tốt đến đâu, miễn là người đó không mang lại lợi ích gì cho họ, thì người đó sẽ bị họ đối xử bằng sự đề phòng. Họ không mở lòng với bất kỳ ai và có thái độ đề phòng với tất cả mọi người. Những người như vậy là có tố chất tốt hay tố chất kém? (Thưa, tố chất kém.) Nếu có tố chất kém, làm sao họ vẫn có những tư tưởng như vậy? Những người như vậy chính là kẻ hẹp hòi. Sự khác biệt giữa người không có tố chất và kẻ não tàn là gì? Người không có tố chất thì thiểu năng và đần độn. Ngoài việc lo cho bản thân được ăn no mặc ấm, giữ thể diện, tính toán chiếm lợi và không để mình chịu thiệt, thì họ không có chút tố chất nào cả. Trong khi đó, kẻ não tàn thậm chí còn không biết tính toán bảo vệ lợi ích của mình hay chiếm lợi – họ đơn giản là không có suy nghĩ gì cả. Những kẻ thiểu năng và đần độn, ngoài việc có chút tính toán, thì hoàn toàn không có năng lực sinh tồn, không có tố chất, và không có năng lực phán đoán. Do đó, họ đối xử với bất kỳ ai cũng đều không có nguyên tắc, mà chỉ dựa vào cảm giác. Miễn là cảm thấy ngươi không tốt với họ thì họ sẽ tránh ngươi, trong lòng chống đối ngươi và hận ngươi, từ chối ngươi. Bất kể ngươi có bao nhiêu thiện chí với họ hoặc giúp đỡ họ như thế nào, chỉ cần họ không thể nhận thức rõ ràng, thì họ sẽ không cảm thấy rằng ngươi thân thiện với họ và hoàn toàn không có hại cho họ. Họ không thể xác định được con người, sự việc và sự vật là đúng hay sai, phải hay trái, tích cực hay tiêu cực – họ không thể phán đoán những điều này. Họ chỉ có một số tính toán. Khi chiếm được lợi, họ cảm thấy vui vẻ; khi không chiếm được lợi, họ cảm thấy mình đã chịu thiệt, bị đối xử bất công, bị người khác cười nhạo, và họ quyết tâm lần sau sẽ không để người khác chiếm lợi, không cho phép người khác khoe khoang hay chiếm thế thượng phong trước mặt họ – họ sẽ không cho người khác bất kỳ cơ hội nào. Ngươi nói xem, chỉ có những tính toán này trong đầu thì có được coi là có tố chất không? Có tốt hơn một chút so với não tàn, nhưng khi nói đến năng lực thì họ đều không có – họ không có bất kỳ loại năng lực nào để xử lý các loại chuyện khác nhau. Họ đơn giản là ngu ngốc và thiểu năng. Những người như vậy không có tố chất. Các ngươi hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Loại người này chỉ hơn kẻ não tàn ở chỗ họ có những tính toán; kẻ não tàn thậm chí một chút tính toán như vậy cũng không có. Khi nghe vậy thì loại người này không phục: “Anh nói tôi không có năng lực phán đoán sao? Đặt một ít đô la Mỹ và vàng cùng một chỗ, xem tôi có nhận ra không. Tôi có thể phân biệt chúng! Vàng thì màu vàng, còn đô la Mỹ là tiền giấy! Đặt bạch kim và bạc cùng một chỗ, xem tôi có phán đoán được không! Bạch kim và bạc có sắc trắng khác nhau – tôi có thể nhìn ra!”. Đây có phải là ngu xuẩn không? Đây là khá ngu xuẩn. Họ chỉ có thể phân biệt những thứ này, thế mà còn muốn khoe khoang hòng chứng tỏ rằng mình không ngu xuẩn. Họ đã làm rất nhiều điều ngu xuẩn, rất nhiều điều thể hiện sự thiếu tố chất – tại sao họ không nói về những điều đó và cố gắng hiểu những điều đó? Chính vì họ thiếu tố chất, vì tố chất của họ quá kém, và họ không thể xác định hoặc phân biệt những điều này, nên họ đưa ra một hoặc hai điều mà kẻ não tàn không thể làm để chứng minh họ không phải kẻ não tàn, để chứng minh họ có chút khôn vặt và tố chất. Đây có phải là ngu xuẩn không? Điều này càng chứng tỏ sự ngu xuẩn của họ. Chúng ta cũng đã thông công xong về các biểu hiện của những người không có tố chất. Đâu là thước đo chính để xem một người có năng lực phán đoán hay không? Đó là xem họ có tư duy của nhân tính bình thường hay không. Nếu ngươi không có tư duy của nhân tính bình thường, ngươi sẽ không thể phán đoán bất cứ điều gì. Nếu ngươi có tư duy của nhân tính bình thường, sự phán đoán của ngươi vẫn có thể sai lệch, nhưng ít nhất, nó cho thấy rằng ngươi có năng lực phán đoán và sở hữu năng lực tư duy của nhân tính bình thường. Sự phán đoán này không phải là suy đoán, cũng không phải là giả định, không phải là giả thuyết, lại càng không phải là suy luận. Thay vào đó, chúng là những kết luận và cách nhìn khác nhau đạt được thông qua việc xem xét tất cả các khía cạnh của một vấn đề. Đây được gọi là năng lực phán đoán.

Năng lực phán đoán đã nói xong rồi, tiếp theo chúng ta hãy nói về năng lực phân biệt. Năng lực phân biệt là nói đến điều gì? Chủ yếu là nói đến việc phân biệt xem con người, sự việc, sự vật là chính diện hay phản diện, là đúng hay sai, là phải hay trái; là xác định tính chất hoặc phân loại con người, sự việc và sự vật, đem những con người, sự việc và sự vật mà ngươi đối mặt phân vào các loại khác nhau. Ý định ban đầu và mục đích của việc phân biệt chính là để phân loại con người tùy theo loại, và phân loại các sự vật, sự việc tích cực và tiêu cực cũng tùy theo loại. Đương nhiên, phân loại không phải là nói đến việc xếp chim vào loại chim, xếp động vật vào loại động vật, xếp thực vật vào loại thực vật, năng lực phân biệt không phải là nói đến khả năng phân biệt những thứ này, mà là nói đến năng lực phân biệt thuộc tính của các loại người, sự việc, sự vật. Ví dụ, ngươi có thể phân loại các biểu hiện, sự bộc lộ và thực chất của các loại người không? Ngươi có thể định nghĩa thuộc tính của các loại người, sự việc, sự vật mà ngươi gặp phải không? Chẳng hạn như, khi phân biệt kẻ chẳng tin, ngươi có thể phân biệt được những sự bộc lộ của kẻ chẳng tin nhằm giúp ngươi nhận ra rõ ràng rằng họ là kẻ chẳng tin hay không? Nếu ngươi biết kẻ chẳng tin có những đặc điểm và đặc trưng nào, có những sự bộc lộ nhân tính nào, sẽ nói những lời gì, có những hành động gì, và có những tư tưởng, quan điểm nào, thì ngươi nên có thể phân biệt được những kẻ chẳng tin. Một người có tố chất tốt, khi các loại con người, sự việc, sự vật xuất hiện, thì họ có thể phân biệt được đó là sự vật, sự việc tích cực hay tiêu cực, là người tích cực hay tiêu cực, là thuộc về chính nghĩa hay tà ác, là đúng hay sai. Họ có thể định nghĩa thuộc tính của các loại con người, sự việc, sự vật, và có thể phân biệt được liệu chúng có phù hợp với nhân tính và lẽ thật hay không. Đây là người có tố chất tốt. Vậy người có tố chất ở mức trung bình thì sao? Họ có thể phân biệt được các loại người, sự việc và sự vật có thuộc tính rõ ràng. Ví dụ, có người nói: “Làm gì có Đức Chúa Trời? Ngài ở đâu? Sao tôi không xác định được sự tồn tại của Ngài?”. Đối với những lời phủ nhận Đức Chúa Trời một cách rõ ràng như vậy, họ có chút phân định và có thể phân biệt được người này là kẻ chẳng tin, là một nhân vật phản diện. Đối với cái ác rõ ràng, những sự vật, sự việc rõ ràng là tiêu cực, phi chính nghĩa và tà ác, thì họ có thể phân biệt được, còn đối với một vài sự vật, sự việc có vẻ đúng nhưng thực chất là sai, là những thứ mà mọi người không thường nghe thấy, những thứ thuộc về vùng trung gian, vùng xám, thì họ không thể phân biệt được, cũng không thể đối đãi một cách khác biệt. Đối với kẻ ác làm những việc xấu rõ ràng, thì họ có năng lực phân định, họ biết đó là kẻ ác, họ biết nếu kẻ ác như vậy làm lãnh đạo và có được địa vị thì chính là kẻ địch lại Đấng Christ. Còn nếu người này có phẩm chất nhân tính không tốt nhưng chưa làm ra việc ác, thì họ không thể phân biệt được liệu người này có thể được xếp vào loại kẻ ác hay không, và người này có thể làm ra những việc ác nào – họ không thể định nghĩa được thuộc tính của người này. Đây là tố chất ở mức trung bình. Khi hành vi của một số người khá rõ ràng, như dâm loạn, thờ ngẫu tượng, đi theo thế tục, thích nói chuyện thị phi, thường xuyên áp bức và bắt nạt người khác, hoặc giết người phóng hỏa, v.v., thì họ sẽ nói những người này đều không phải người tốt, đều là người bị Đức Chúa Trời ghê tởm; họ có thể phân biệt được chuyện này. Nhưng đối với một số người có hành vi bên ngoài khá tốt – thường xuyên bố thí và giúp đỡ người khác, có thể nhẫn nại với người khác, chung sống với người khác cũng không tệ, bề ngoài trông có vẻ nhân tính khá tốt, nhưng lời nói và việc làm của người này phần lớn thời gian không phù hợp với lẽ thật, hành động thường xuyên vi phạm nguyên tắc lẽ thật, thì họ không thể phân định được loại người này có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không, rốt cuộc thuộc loại người nào. Đối với những con người, sự việc, sự vật rõ ràng và dễ dàng dán nhãn, thì họ có thể phân biệt được chúng là đúng hay sai, phải hay trái, là chính nghĩa hay tà ác, là sự vật, sự việc tích cực hay tiêu cực. Họ có thể phân biệt được những chuyện bề ngoài như vậy, nhưng lại không thể phân biệt được những con người, sự việc, sự vật có tính nguyên tắc tương đối mạnh và liên quan đến lẽ thật. Họ không thể phân biệt được cái nào rõ ràng là phù hợp với lẽ thật và cái nào thì vi phạm lẽ thật. Đây là tố chất ở mức trung bình. Ví dụ, có người mặc quần áo có chất liệu tương đối tốt, trông có khí chất, cao cấp, giống như những nhân vật cấp cao hoặc giới quý tộc cổ cồn trắng trên thế gian, họ nhìn thấy liền nói: “Quần áo này là thứ người ngoại đạo thích, chúng ta là người tin Đức Chúa Trời thì không nên thích, đây không phải là sự vật, sự việc tích cực”. Nói như vậy là sai. Bộ quần áo này trông không gợi cảm, mê người, mà nhìn có khí chất, đoan trang, đứng đắn, khiến người ta trông cao quý. Một bộ quần áo khiến người ta trông cao quý, có khí chất và còn là mốt thịnh hành hiện nay, mà họ lại có thể xem là sự vật, sự việc tiêu cực, nói nó là tà ác, thế thì có phải là không biết phân biệt không? (Thưa, phải.) Vậy năng lực phân biệt của người này như thế nào? Cùng lắm là ở mức trung bình, đây là tố chất ở mức trung bình. Có một số chuyện mà người ngoại đạo phân biệt được, còn họ lại không thể phân biệt được – người ngoại đạo có tố chất tốt còn biết phân biệt nhân tính tốt xấu, vậy mà họ lại không thể. Sau khi tin Đức Chúa Trời, dù đã hiểu một số đạo lý, họ cũng không thể phân biệt được sự vật, sự việc tích cực và tiêu cực. Những thứ rõ ràng thì họ có thể phân biệt, những thứ không rõ ràng thì không phân biệt được. Kẻ ác rõ ràng, sự gây nhiễu loạn và gián đoạn rõ ràng, sự vi phạm nguyên tắc rõ ràng thì họ còn có thể phân biệt, chứ đối với một số con người, sự việc, sự vật tương đối đặc thù, quỷ dị và ẩn tàng thì họ không thể phân biệt được, phải thông qua sự thông công, nhắc nhở của người khác hoặc khi những người đó làm ra những chuyện rõ ràng thì họ mới có thể phân biệt, nếu không thì không thể phân biệt được. Điều này cho thấy năng lực phân biệt của họ ở mức trung bình. Còn có một số người, bất kể trong hoàn cảnh nào, đối với bất kỳ con người, sự việc, sự vật nào cũng không thể phân biệt được, không thể định nghĩa được thuộc tính của chúng. Ví dụ, khi đánh giá thuộc tính của một loại người rốt cuộc là gì – là thuộc về người tin thật hay kẻ chẳng tin, loại người này có phải là người mưu cầu lẽ thật hay không, có phải là đối tượng có thể bồi dưỡng hay không, thì họ đều không biết, không nhìn ra được. Ngay cả khi loại người này có nhiều biểu hiện, có những vấn đề rất rõ ràng, họ cũng không thể phân biệt được, không thể định nghĩa được thuộc tính, đây là không có năng lực phân biệt. Ngay cả khi có một số người, sự việc, sự vật thường gặp và dễ phân định xuất hiện, họ cũng không thể nói rõ được loại người này rốt cuộc là người tốt hay kẻ ác, loại chuyện này thuộc về chuyện chính nghĩa hay chuyện tà ác, làm sao để phân biệt, làm sao để quy về loại nào, họ đều không biết và không phân loại được. Ngay cả khi đã đọc lời Đức Chúa Trời và thông công với người khác rồi, họ cũng không thể phân biệt được, cuối cùng còn để người khác xác định giúp, nói rằng: “Anh xác định họ là gì thì là cái đó, anh xác định họ là chính nghĩa thì là chính nghĩa, anh xác định họ là tà ác thì họ là tà ác”, tóm lại, bản thân họ không thể định nghĩa và không thể đưa ra kết luận. Bất kể là chuyện gì, chỉ cần nói đến việc đưa ra kết luận là họ liền ngớ người ra, không có lời nào để nói, đây có phải là không có năng lực phân biệt không? (Thưa, phải.) Ngay cả một hiện tượng bên ngoài đơn giản nhất, bảo họ phân biệt một chút xem nó có tính chất gì, có thuộc tính gì, họ cũng không biết. Nhưng họ có một chiêu, họ có thể thao thao bất tuyệt kể cho ngươi nghe người nào đó đã nói những lời gì, đã làm những chuyện gì. Nhưng nếu ngươi hỏi họ: “Người này rốt cuộc có phải là người tin thật hay không? Có phải là người có khát khao mãnh liệt đối với Đức Chúa Trời hay không?”, thì họ đáp: “Dù gì anh ta cũng đã tin Đức Chúa Trời hơn mười năm rồi, cũng có thể vứt bỏ gia đình và sự nghiệp. Khi con anh ta mới ba bốn tuổi, anh ta đã giao cho anh chị em chăm sóc, rồi rời nhà đi làm bổn phận”. Họ cũng có cái khôn vặt của mình, không tự mình đưa ra kết luận, mà để ngươi nói. Ngươi lại hỏi họ: “Vậy người này có phải là người tiếp nhận lẽ thật không?”, họ đáp: “Dù sao thì từ khi làm lãnh đạo hội thánh, anh ta đều dậy rất sớm, ngủ rất muộn. Còn về việc anh ta có phải là người tiếp nhận lẽ thật hay không, thì có một lần anh chị em góp ý cho anh ta, anh ta liền rơi nước mắt ngay tại chỗ, nói rằng mình mắc nợ Đức Chúa Trời và đã làm không tốt”. “Vậy sau đó anh ta có hối cải không?”. “Dù sao thì lúc đó thái độ của anh ta khá tốt”. Họ thích kể cho ngươi nghe rất nhiều thông tin, để cho ngươi biết họ có nội hàm, họ cái gì cũng biết, lại biết nhìn người, đừng xem thường họ. Thực ra họ không biết phân định người ta, cũng không biết đưa ra kết luận, họ chỉ kể cho ngươi một đống hiện tượng, một đống thông tin, để ngươi phân biệt người này rốt cuộc là người thế nào, để ngươi đưa ra kết luận và định nghĩa thuộc tính của người này. Ngươi nói: “Người này về cơ bản vẫn được coi là người tiếp nhận lẽ thật. Anh ta có nhiệt huyết trong việc tin Đức Chúa Trời và là người tin thật. Chỉ là vì tố chất kém, không có năng lực lĩnh hội, nên dù sẵn lòng tiếp nhận lẽ thật, anh ta vẫn không tìm được nguyên tắc thực hành, cũng không thể thực hành lẽ thật”. Họ đáp: “Tôi thấy anh ta không giống người có năng lực lĩnh hội. Hễ nói đến chuyện gì không vừa ý là khóc – lúc nào cũng một thái độ đó”. Ngươi xem, bản thân họ không có năng lực phân biệt mà còn rất giỏi tát nước theo mưa, đây chẳng phải là phiền phức sao? Biểu hiện thường gặp nhất của người không có năng lực phân biệt là họ thích kể cho ngươi nghe một đống hiện tượng, thông tin, vấn đề khó, quá trình sự việc hoặc toàn bộ cảnh tượng của chuyện mà họ nhìn thấy, sau đó chờ đợi định nghĩa của ngươi, sau khi ngươi định nghĩa xong, họ còn cảm thấy định nghĩa của ngươi rất tốt, có thể tiếp nhận. Tiếp nhận xong thì họ cũng chẳng biết tại sao ngươi lại định nghĩa như vậy, không biết cơ sở, nguyên tắc để ngươi đưa ra kết luận này là gì, nên đối đãi, xử lý loại người này như thế nào, những điều này họ hoàn toàn không biết, thông qua thông công và học tập mà vẫn không hiểu. Đây là không có năng lực phân biệt, đây là biểu hiện của việc không có tố chất. Họ còn thường xuyên phạm sai lầm là bóp méo sự thật, râu ông nọ cắm cằm bà kia, bất kể bình luận vấn đề gì cũng không nắm được căn nguyên và thực chất của vấn đề, chỉ dựa vào hiện tượng bên ngoài để đưa ra kết luận. Ví dụ, kẻ địch lại Đấng Christ làm việc ác, thì họ bảo đó là một vi phạm, cho rằng chỉ cần kẻ địch lại Đấng Christ nhận thức được là có thể sửa đổi; nếu thấy người trung thực nói một câu dối trá thì họ liền xác định tính chất là người giả dối; thấy một người kiêu căng tự cho mình là đúng thì liền xác định tính chất là kẻ ác, đây là những sai lầm mà người không có năng lực phân biệt thường phạm phải. Đối với mỗi người mà nói, năng lực phân biệt cũng là một phương diện tố chất mà con người nên có khi đối mặt với các loại người, sự việc và sự vật trong cuộc sống. Năng lực phân biệt, ngoài việc phân biệt thực chất của các loại người, sự việc và sự vật ra, thì chính là xác định thuộc tính của chúng, ngươi xác định càng chuẩn thì càng chứng tỏ ngươi càng có năng lực phân biệt; nếu ngươi xác định không quá chuẩn xác, có một khoảng cách giữa sự xác định của ngươi và thực chất, căn nguyên của sự vật, sự việc đó, thì chứng tỏ năng lực phân biệt của ngươi ở mức trung bình; nếu ngươi không biết xác định thuộc tính của con người, sự việc và sự vật, cũng không nhìn thấu được thuộc tính của chúng, thì chứng tỏ ngươi không có năng lực phân biệt. Ví dụ, đối với một người, ngươi chỉ có thể nói ra nhiều biểu hiện và sự bộc lộ của họ nhưng lại không nhìn thấu được thực chất của họ. Tức là ngươi chỉ có thể nói người này thích tiêu cực hoặc có sở trường gì đó, chỉ nói về nhiều chuyện xảy ra với người này, nhưng ngươi lại không biết phẩm chất nhân tính, tố chất và thái độ của họ đối với lẽ thật. Đối với những vấn đề mang tính thực chất này ngươi đều không nhìn thấu, đối với những con người, sự việc và sự vật xảy ra xung quanh họ, ngươi cũng không có bất kỳ định nghĩa nào. Bất kể những chuyện này là đúng hay sai, là chính nghĩa hay tà ác, là sự vật, sự việc tích cực hay tiêu cực, là biểu hiện của nhân tính tốt hay nhân tính ác, đối với những điều này ngươi đều không nhìn thấu, không biết phân định. Bất kể đã nghe bao nhiêu lẽ thật, nghe bao nhiêu lời chứng trải nghiệm, ngươi cũng không biết phân biệt và phân loại các loại người, sự việc và sự vật; trong lòng ngươi không có bất kỳ định nghĩa nào đối với các loại người, sự việc và sự vật, đây là không có năng lực phân biệt, cũng là một biểu hiện của việc không có tố chất.

Người không có năng lực phân biệt mà không tự biết mình, lại còn kiêu căng tự cho mình là đúng, thì sai lầm dễ phạm phải nhất là gì? Chính là chỉ dựa vào một vài biểu hiện của người khác mà tùy tiện chụp mũ, xác định tính chất của người ta. Ví dụ, họ thấy có người có chút ngang ngạnh thì liền nói người ta giống kẻ ác, là ma quỷ, đây chẳng phải là sai lầm lớn sao? Người ta chỉ là có chút ngang ngạnh, vì điều kiện gia đình hoặc hoàn cảnh trưởng thành mà hình thành một số thói quen sinh hoạt không tốt hoặc mắc phải một số thói quen xấu, tật xấu. Nhìn chung, phẩm chất nhân tính của những người này tuy không được coi là lương thiện nhưng cũng không phải là ác, cho nên không thể gọi họ là kẻ ác. Thế nhưng những người không có năng lực phân biệt lại chỉ dựa vào một hai câu nói hoặc một hai việc làm của người ta mà mù quáng định nghĩa, nói rằng: “Người này tính cách cổ quái, cô độc, ngang ngạnh. Họ là kẻ ác”. Định nghĩa này là sai. Kẻ ác thực sự sẽ nói những lời dễ nghe và dỗ dành người khác; họ có thủ đoạn, họ sẽ che giấu và lừa gạt, và họ sẽ đùa bỡn với người khác. Một số kẻ ác thậm chí còn có thể bố thí, giúp đỡ người khác và có thể nhẫn nại. Những người không có năng lực phân biệt sẽ nói về một người như vậy rằng: “Người này tốt quá, họ là tín đồ chân chính”, nhưng trên thực tế, người đó là một người Pha-ri-si giả hình. Những người không có năng lực phân biệt không thể nhìn thấu thực chất của con người – trong các cuộc bầu cử, họ thậm chí còn bỏ phiếu cho kẻ ác trở thành lãnh đạo. Điều này tương đương với cái gì? Nó tương đương với việc tiếp tay cho giặc. Một số kẻ ác không thể hiện sự tà ác trong hành vi của họ, và họ không bộc lộ nó ra. Sự tà ác của họ nằm ở trong lòng. Những việc họ làm đều có mục đích, và ý định của họ đều có tính chất che giấu. Những việc họ làm mà ngươi có thể thấy thực ra không phản ánh ý định thực sự của họ. Ý định, mục đích thực sự và sự tà ác của họ đều được che giấu trong lòng. Nếu một người không có năng lực phân biệt và không thể phân định được những người như vậy, thì họ có khả năng sẽ coi những người đó là người tốt, là người mưu cầu lẽ thật. Có người tính cách thẳng thắn và không dùng bất kỳ thủ đoạn nào khi giao tiếp với người khác. Họ nói năng thẳng thắn, và tính cách, tính khí có phần nóng nảy. Thực ra nhân tính của họ không có vấn đề gì lớn, chỉ là đôi khi giọng điệu nói chuyện của họ hơi cộc lốc. Tuy nhiên, những gì họ bộc lộ ra chính xác là những gì họ nghĩ trong lòng – bất cứ điều gì họ nghĩ trong lòng thì họ sẽ bộc lộ ra bên ngoài. Người khác thường nghĩ rằng những người này không biết cách giao tiếp với mọi người hoặc không biết cách xã giao, và họ không quen với cách nói chuyện của những người này. Những người như vậy nói năng đặc biệt thẳng thắn và trực tiếp, và họ luôn vô tình làm tổn thương người khác. Lâu dần, họ làm tổn thương tất cả mọi người, và người ta không có thiện cảm với họ. Một số người không có sự phân định nói rằng người như vậy là ác, nhưng thực ra, họ không ác. Ngươi nói họ ác – vậy hãy đưa ra sự thật về việc họ đã hành hạ người khác như thế nào: Họ đã trừng trị hay áp bức ai? Họ đã hãm hại hay lừa gạt ai? Nếu thực sự có cơ sở thực tế chứng minh người này là kẻ ác – rằng họ không chỉ làm tổn thương người khác bằng lời nói, mà trong sâu thẳm trái tim họ cũng có sự tà ác, và họ thực sự có hại cho người khác – thì họ có thể được xác định tính chất là kẻ ác. Nếu họ không có ý định hãm hại người khác, thì họ không phải là kẻ ác. Họ chỉ đơn giản là có tính cách thẳng thắn và ăn nói thẳng thừng – điều này là bẩm sinh. Ăn nói thẳng thừng, cùng lắm chỉ là một tật xấu và khuyết điểm của nhân tính họ. Họ không biết cách nói chuyện khéo léo và đặt mình ngang hàng với người khác, họ không biết cách bao dung cho người khác, nhượng bộ và nhẫn nại với người khác, quan tâm đến cảm xúc của người khác. Họ không biết bất kỳ điều nào trong số này, có những thứ còn thiếu trong nhân tính của họ. Thế nhưng một số người không có sự phân định lại coi những cá nhân như vậy là kẻ ác. Thực ra, khi những cá nhân này làm việc, họ bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời trong hầu hết thời gian. Mặc dù giọng điệu của họ có hơi cộc lốc khi nói chuyện với người khác, nhưng họ chưa từng hãm hại ai, cũng không có ý định hãm hại ai. Chỉ là họ thiếu khéo léo trong lời nói và không xem xét hoàn cảnh khi nói. Vì một số khuyết điểm và tật xấu nhất định trong nhân tính của những cá nhân như vậy, nên nhiều người khác đã lầm tưởng rằng họ là kẻ ác, nhưng lại không thể đưa ra bất kỳ bằng chứng nào về việc họ làm điều ác. Đây là một phán đoán sai lầm, một sự xác định sai tính chất của những cá nhân này. Kẻ ác thực sự bề ngoài có thể không làm hại người khác, có thể bố thí và giúp đỡ người khác, lời nói của họ có thể thể hiện sự thấu hiểu, quan tâm, chăm sóc và nhượng bộ, thậm chí họ còn có thể bao dung và yêu thương người khác – lời nói và hành động của họ có vẻ khá tốt – nhưng trong một vài trường hợp hoặc một vài chuyện đặc biệt, và trong những chuyện liên quan đến lợi ích của mình, thì họ có thể áp bức, hãm hại và ngấm ngầm tính kế chống lại người khác, thậm chí còn hoàn toàn không bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Ngay cả khi một chuyện không liên quan đến lợi ích của mình, ngay cả khi họ chỉ cần nhấc một ngón tay, họ cũng không bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Những gì mà cá nhân như vậy sống thể hiện ra bên ngoài có vẻ đặc biệt tốt, và từ bên ngoài thì không thể nhìn thấy khuyết điểm hay tật xấu nào trong nhân tính của họ, nhưng họ thực sự là những kẻ ác trăm phần trăm. Nhiều người không phân định được những cá nhân như vậy và bị che mắt bởi thủ đoạn, triết lý xử thế, và những âm mưu, kế hoạch của họ. Nếu thực chất bản tính của một cá nhân thuộc loại này và sự thật về việc làm ác của họ bị phơi bày, thì những người kia chẳng những không chấp nhận sự thật đó, mà còn coi cá nhân đó là người tốt, là người mà nhà Đức Chúa Trời nên bồi dưỡng và giao cho vai trò quan trọng. Họ không có sự phân định về những cá nhân như vậy. Chúng ta khỏi nói đến việc liệu những người này có thể đánh giá một người theo lời Đức Chúa Trời hoặc nguyên tắc lẽ thật hay không, mà chỉ cần nhìn vào tố chất của họ – ngay cả những cá nhân rõ ràng là ác mà họ cũng coi là người tốt, và ngay cả khi có sự thật về việc làm ác của những cá nhân này, họ vẫn coi những cá nhân này là người tốt – tức là họ hoàn toàn hồ đồ. Người không có năng lực phân biệt không chỉ ngu dốt, đần độn, mà còn hồ đồ. Những kẻ ác kia đã áp bức và trừng trị người khác, còn dùng nhiều thủ đoạn khác nhau để đùa bỡn với người ta, thế nhưng những người này lại không coi đó là điều ác và không thể nhìn ra đó là điều ác. Ngoài ra, kẻ ác còn có một biểu hiện rõ ràng, đó là họ không bao giờ bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời – dù chỉ một lần. Ngay cả khi họ chỉ cần nói một câu hoặc nhấc một ngón tay, họ cũng không bảo vệ, huống chi là những chuyện liên quan đến an toàn cá nhân, hoặc địa vị và danh dự của họ – trong những trường hợp như vậy, họ lại càng không bảo vệ lợi ích của nhà Đức Chúa Trời. Một số người không nhìn thấu được những cá nhân rõ ràng là ác này. Các ngươi nói xem, những người như vậy có tố chất không? Kẻ ác có thực chất tà ác; họ sẽ áp bức bất kỳ ai. Bất kể là ai, chỉ cần một người ảnh hưởng đến địa vị hoặc lợi ích của họ, thì người đó sẽ trở thành đối tượng bị họ áp bức. Những người không có sự phân định không thể nhìn thấu những chuyện này. Người không có sự phân định có phải là người hồ đồ không? (Thưa, phải.) Họ thậm chí còn không biết liệu kẻ ác có áp bức họ hay không – các ngươi nói xem, những người như vậy hồ đồ đến mức nào? Chẳng phải họ hồ đồ đến cùng cực sao? (Thưa, phải.) Sau khi vài kẻ ác bị cách chức, một số người hoàn toàn không có năng lực phân biệt thậm chí còn đứng ra nói giúp họ, bênh vực họ và kêu oan cho họ, chỉ vì những kẻ ác đó đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm, có vài ân tứ, có tài ăn nói, có thủ đoạn, bề ngoài thì vứt bỏ, dâng mình và chịu khổ. Những người này không nói về việc những kẻ ác đó đã làm bao nhiêu điều ác. Thay vào đó, họ nói: “Họ đã tin Đức Chúa Trời nhiều năm, một lòng một dạ đi theo Đức Chúa Trời, và đã chịu nhiều khổ sở. Họ thậm chí còn bị con rồng lớn sắc đỏ bắt bớ, chịu cực hình và ngồi tù, còn giúp đỡ anh chị em này nọ”. Họ chỉ nhìn vào những điều này và phớt lờ những việc làm ác của các cá nhân đó, không đề cập đến việc họ đã làm bao nhiêu điều ác. Chẳng phải họ quá hồ đồ sao? (Thưa, phải.) Những người hồ đồ đến cùng cực thì vô phương cứu vãn , hết thuốc chữa rồi. Người không có năng lực phân biệt là người không có tố chất – họ không có bất kỳ năng lực nào cả. Những người như vậy không biết và không thể phân biệt được một việc là đúng hay sai, hoặc một người là nhân vật tích cực hay tiêu cực. Họ không thể nhìn rõ thực chất và bản tính của một người, hoặc đúc kết thuộc tính của người đó thông qua hành vi, biểu hiện, sự bộc lộ bại hoại, và nhiều sự thật về việc làm ác của họ. Chừng nào người đó vẫn còn ở trong hội thánh, những người này sẽ coi họ là anh chị em, và đối xử với họ bằng tình yêu thương từ trong lòng. Họ không có sự phân định về bất kỳ ai và không thể đối xử với bất kỳ ai theo nguyên tắc. Những người như vậy không có năng lực phân biệt. Họ không biết và không thể phân biệt được các loại chuyện khác nhau là chính nghĩa hay tà ác, liệu chúng có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến con người, và liệu chúng nên được coi là đúng và được chấp nhận, hay nên được coi là sai và bị phân định, từ chối và chống đối. Khi ngươi đưa cho họ một ví dụ để giải thích một chuyện nào đó, họ biết rằng những chuyện như vậy không tốt, không phù hợp với nguyên tắc lẽ thật, và không áp dụng được trong nhà Đức Chúa Trời. Nhưng lần sau khi một chuyện tương tự nảy sinh, họ vẫn không biết cách tiếp cận và không thể áp dụng nguyên tắc – họ chỉ hiểu nếu ngươi đưa cho họ một ví dụ khác. Ngươi phải giải thích từng chuyện một cho họ, dùng phương pháp dạy trẻ con học, thì họ mới hiểu. Đây là không có năng lực phân biệt. Bất kể là người hay sự vật, họ đều không biết nó là chính nghĩa hay tà ác, là đúng hay sai, là sự vật tích cực hay tiêu cực, liệu nó có phù hợp với lẽ thật và nhu cầu của nhân tính hay không, cũng như người tin Đức Chúa Trời nên nhìn nhận nó như thế nào – họ không biết bất kỳ điều nào trong số này. Đây là không có năng lực phân biệt. Vậy, cơ sở để đánh giá mức độ năng lực phân biệt của một người là gì? Nó dựa trên việc liệu ngươi có định nghĩa chính xác về thuộc tính của các sự vật khác nhau hay không. Nếu định nghĩa của ngươi chính xác, thì ngươi có năng lực phân biệt. Nếu định nghĩa của ngươi về thuộc tính của các loại sự vật chính xác trên năm mươi phần trăm, thì năng lực phân biệt của ngươi ở mức trung bình hoặc trên trung bình. Nếu không đạt đến năm mươi phần trăm, thì năng lực phân biệt của ngươi kém. Nếu độ chính xác thậm chí không được một phần trăm, thì ngươi không có năng lực phân biệt và là người không có tố chất. Việc một người có năng lực phân biệt hay không được phân định theo cách này. Ta sẽ không đưa thêm ví dụ nào về năng lực này nữa. Các ngươi có thể tự thông công về nó, Ta sẽ để chủ đề này lại cho các ngươi.

Tiếp theo, chúng ta sẽ nói về điều thứ tám, năng lực ứng biến. Năng lực ứng biến nghĩa là cách người ta ứng phó với một chuyện gì đó – bất kể chuyện đó đã xảy ra rồi, hay là bất ngờ xảy ra, hay là những nhân tố khác nhau của chuyện đó đã thay đổi – cách người ta ứng phó với chuyện đó chính là năng lực ứng biến của họ. Vậy năng lực ứng biến chủ yếu nói đến điều gì? Là nói đến năng lực nhận diện, phán đoán, tiếp cận và xử lý một chuyện nào đó. Khi một con người, sự việc hay sự vật xảy đến với ngươi, thì tính chất của loại con người, sự việc hay sự vật này là gì? Là điều tích cực hay tiêu cực? Nên đối mặt với điều đó và xử lý nó như thế nào? Khi điều này đột nhiên xảy ra, thì ngươi nên học được bài học gì từ đó? Ý tốt của Đức Chúa Trời trong chuyện này là gì? Nếu điều này có thể đem lại tổn hại cho công tác của hội thánh, vậy nên xử lý như thế nào thì mới có thể phù hợp nguyên tắc, mới có thể khắc phục hậu quả của sự tổn hại này, không để nó tiếp tục gây hại cho công tác của hội thánh nữa, cũng như có thể ngăn chặn ảnh hưởng xấu tiếp tục phát triển? Nếu lúc đối mặt với một con người, sự việc hay sự vật nào đó, ngươi có thể dựa trên nền tảng là các nguyên tắc phân định mà ngươi đã nắm vững hoặc các nguyên tắc lẽ thật mà ngươi đã biết, để phán đoán chính xác thực chất và căn nguyên của loại chuyện này, cùng nguyên tắc và phương án để xử lý chúng – thì ngươi chính là người có năng lực ứng biến, cũng là người có tố chất tốt. Chẳng hạn như, có một chuyện đột nhiên xảy ra trước mặt ngươi, thì ngươi nên đối mặt với nó như thế nào? Trước tiên, nên nhìn cho rõ xem nó có thể phát triển theo chiều hướng nào, nếu tiếp tục phát triển thì sẽ đem lại hậu quả gì, căn nguyên phát sinh chuyện đó nằm ở đâu, thực chất của nó là gì – ngươi phải biết phân định và có thể nhìn rõ những chuyện này. Hãy thông qua việc phân định mà xác định tính chất chuyện đó, rồi sau đó tìm ra phương án xử lý. Nên xử lý chuyện này như thế nào, ai là người chủ mưu, ai là người đi theo, ai là người chịu trách nhiệm chính, ai phải chịu trách nhiệm lớn nhất, xử lý những người chịu trách nhiệm này như thế nào – ngươi phải hiểu rõ mọi vấn đề này. Ngoài ra, khi xử lý vấn đề, ngươi còn phải giảmtổn thất đến mức thấp nhất có thể, còn phải sắp xếp và điều chỉnh lại nhân sự. Làm như vậy thì mới có thể kịp thời chỉnh đốn sai lầm, giải quyết triệt để vấn đề và vãn hồi cục diện, làm cho chuyện này có thể phát triển theo chiều hướng đúng đắn và tốt đẹp. Tóm lại, nếu ngươi có thể suy xét đến đủ mọi loại nhân tố liên quan đến chuyện này, sau đó có phương thức ứng phó đúng đắn, có nguyên tắc xử lý đúng đắn và chính xác, thì như vậy gọi là có năng lực ứng biến, như vậy nghĩa là ngươi có tố chất tốt. Đương nhiên, phương thức ứng phó và nguyên tắc xử lý này cũng có thể là những kết luận và định nghĩa đạt được thông qua việc tiếp xúc và thông công cùng người biết về tình hình, hoặc thông qua sự phối hợp và bàn bạc với mọi người. Nếu ngươi có thể thông qua việc tìm hiểu diễn biến của tình hình thực tế, rồi hỏi ý kiến những anh chị em hiểu loại chuyện này, cuối cùng có thể đưa ra định nghĩa và kết luận, xác định phương án giải quyết, và xử lý tốt vấn đề, điều chỉnh xong nhân sự, bù đắp được những tổn thất do chuyện này gây ra, sau đó điều chỉnh công tác của hội thánh sao cho không phát triển theo chiều hướng xấu nữa – nếu ngươi làm được như vậy thì gọi là có năng lực ứng biến. Nếu có thể xử lý sự việc đến mức độ này thì ngươi được xem là có tố chất tốt. Đương nhiên, tố chất tốt không có nghĩa là khi gặp chuyện thì người ta sẽ có thể lập tức nhìn thấu, có thể quả quyết dứt khoát, xử lý chuyện đó một cách hoàn hảo và thích hợp – không hẳn là vậy. Bởi vì xử lý vấn đề thì cần có quá trình, cần tìm hiểu đủ mọi mặt của chuyện đó thì mới có thể nhìn thấu được thực chất của mọi điều. Con người là người trần mắt thịt và hành động trong phạm vi của nhân tính, cho nên cần có một quá trình, đâu có giống như Thần của Đức Chúa Trời làm việc – Thần của Đức Chúa Trời dò xét toàn mặt đất, một cách toàn diện, Đức Chúa Trời có thể nhìn thấy thực chất và căn nguyên của hết thảy mọi điều và hết thảy mọi vấn đề. Con người thì không nhìn thấu được những thứ ẩn giấu phía sau sự tình, nên sẽ dễ dàng bị lừa gạt, bị bịt mắt. Chính vì một điểm này mà người ta cần thâm nhập và tìm hiểu chân tướng đằng sau của sự tình. Khi hiểu ra được những tình hình thực tế ẩn giấu đằng sau này rồi, nếu ngươi có thể kịp thời xử lý vấn đề, giải quyết những sai lệch, điều chỉnh những người phụ trách và công tác trực tiếp sao cho thích hợp, có thể bảo đảm công tác được vận hành bình thường, vậy thì chứng tỏ ngươi có năng lực ứng biến. Nhất là khi gặp phải chuyện xảy ra bất ngờ, nếu ngươi có thể dựa theo nguyên tắc để xử lý các loại con người, sự việc và sự vật, thì chứng tỏ ngươi là người có tố chất tốt. Người có năng lực ứng biến trung bình, khi gặp những tình huống thông thường và thường gặp, vẫn có thể làm một vài việc theo quy trình và mang tính quy luật, nhưng hiệu quả họ đạt được thì trung bình, chẳng có tính đột phá, cũng chẳng tạo sự phát triển lớn nào. Một khi gặp phải tình huống đặc biệt hoặc sự kiện bất ngờ, thì họ sẽ không biết làm sao và không biết cách xử lý. Chẳng hạn như, có những người rao truyền phúc âm, trong hoàn cảnh bình thường thì mỗi tháng có thể đưa về được mấy người, như vậy là tố chất trung bình, kết quả rao truyền phúc âm cũng trung bình, không tốt lắm. Nếu trong hội thánh đột nhiên xuất hiện kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc người, thì những người rao truyền phúc âm này sẽ hoang mang, không biết nên làm thế nào mới tốt. Công tác phúc âm cũng bị chững lại, họ thì không biết nên tiếp tục rao truyền hay là nên chờ sự sắp xếp công tác. Họ không biết tìm kiếm nguyên tắc của công tác rao truyền phúc âm. Trong sự sắp xếp công tác của nhà Đức Chúa Trời thường nói: “Vào bất kỳ thời điểm nào, trong bất kỳ tình huống nào, cũng không được dừng công tác phúc âm”. Thế mà mới gặp chuyện kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc người, là họ đã dừng công tác phúc âm rồi, như vậy mà là trung thành làm bổn phận sao? Họ chẳng với tới được việc này. Như vậy mà là thuận phục sự sắp đặt và an bài của Đức Chúa Trời sao? Chuyện này, họ cũng chẳng với tới được. Khi gặp kẻ địch lại Đấng Christ làm xằng làm bậy hoặc gây nhiễu loạn và gián đoạn, thì họ hoang mang, không biết hỏi những người hiểu lẽ thật xem gặp chuyện này thì nên xử lý như thế nào, càng không biết tìm kiếm nguyên tắc thực hành và con đường thực hành từ trong lời Đức Chúa Trời – họ chẳng có năng lực ứng biến. Có những lãnh đạo hội thánh thấy kẻ địch lại Đấng Christ lan truyền luận điệu sai lầm để mê hoặc người khác, mà chẳng biết thông công về lẽ thật để phản bác luận điệu sai lầm. Họ không biết làm thế nào, mà cứ miệt mài cầu nguyện: “Thưa Đức Chúa Trời, xin Ngài trói buộc Sa-tan, khóa miệng Sa-tan, đừng cho Sa-tan lan truyền luận điệu sai lầm để mê hoặc mọi người, xin Ngài cứu rỗi những người vô tri và ngu muội, đừng để họ bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc. Thưa Đức Chúa Trời, xin Ngài đem họ trở lại!”. Chỉ biết cầu nguyện mà không biết tìm kiếm lẽ thật thì có thể giải quyết được vấn đề sao? Người ta không làm phần của mình, không làm bổn phận của mình, thì vô dụng. Việc người ta nên làm thì rất nhiều. Trước tiên nên nhìn xem kẻ địch lại Đấng Christ đó có lai lịch gì, có đặc trưng gì, dựa vào cái gì để mê hoặc người khác, cũng nên nhìn xem trong những người bị mê hoặc đó có ai là người có tố chất tốt và có thể tiếp nhận lẽ thật không, rồi phải nhanh chóng cứu lấy những người đó – trước tiên phải làm những việc này. Nhưng những lãnh đạo hội thánh này không biết, cũng không làm công tác theo kiểu này. Họ chỉ hoang mang, dậm chân lo lắng, có những người khiếp nhược vô tích sự còn lo lắng đến khóc. Ngươi khóc thì có ích gì? Khóc thì có thể cứu lấy những người đã bị mê hoặc đó sao? Khóc đâu phải là làm công tác, cũng đâu có nghĩa là ngươi có mang gánh nặng, mà khóc là biểu hiện của sự thiếu năng lực. Người có tố chất mà gặp loại chuyện này thì trước tiên sẽ điềm tĩnh, sau khi cầu nguyện và tìm kiếm, phân tích và phán đoán, rồi thông công, cuối cùng họ sẽ đưa ra quyết định. Còn người có tố chất kém mà gặp chuyện thì sẽ không biết làm sao, không biết cầu nguyện và tìm kiếm, cũng không biết tìm một vài người hiểu lẽ thật mà thông công. Họ chỉ bị động chờ đợi, như vậy là làm chậm trễ công chuyện nhất. Ngươi không có biện pháp, nhưng có khi người khác có, vậy tại sao không tìm người đểnhờ giúp đỡ? Người thông minh thì trong khi chờ đợi cũng không quên làm tròn bổn phận và trách nhiệm của mình. Việc làm tròn bổn phận và trách nhiệm này là tích cực, đâu có tiêu cực. Đây đâu phải là chỉ chờ đợi Đức Chúa Trời ra lệnh, chờ Đức Chúa Trời đích thân hành động để thay đổi cục diện. Mà là trong thời gian chờ đợi, người nào có thể cứu lấy thì ngươi hãy cố hết sức mà cứu lấy. Còn người nào không thể cứu lấy, như những kẻ hồ đồ, người bị tà linh ám, hay là kẻ chẳng tin chỉ tin Đức Chúa Trời để góp vui và ăn chực, thì ngươi không cần quan tâm. Đối với những người chưa bị che mắt, thì ngươi phải nhanh chóng sắp xếp người thông công về lẽ thật và nói về chuyện phân định kẻ địch lại Đấng Christ cho họ. Đây chẳng phải là phương án xử lý sao? Đây chính là biện pháp ứng phó. Người có tố chất kém thì không có những biện pháp ứng phó như thế, chỉ biết khóc và oán trách, như vậy là không có năng lực ứng biến. Trong tình huống bình thường thì họ vẫn có thể làm công tác một cách bình thường, nhưng một khi gặp phải tình huống đặc biệt thì họ sẽ chết lặng, chẳng biết làm sao, năng lực ứng biến của loại người này cùng lắm cũng chỉ ở mức trung bình. Nếu ngay cả trong tình huống bình thường mà cũng không biết xử lý, thì dạng người như vậy chẳng có năng lực ứng biến. Chẳng hạn như, bảo họ đến một hội thánh nào đó để tổ chức bầu cử lãnh đạo, thì họ chẳng biết chọn dạng người như thế nào, triệu tập mọi người để tổ chức bầu cử ra sao, ngay cả trình tự bầu cử cơ bản mà họ cũng không hiểu. Hơn nữa, trong hội thánh đó có một số người có tâm tính bại hoại nghiêm trọng, thuộc loại người ác bá, côn đồ và vô lại, nhân cơ hội gâyrối loạn cho việc bầu cử. Trong tình huống đó, những người không có năng lực ứng biến này càng không xử lý nổi, nói thẳng là họ bị bắt giữ và phải đầu hàng, cuối cùng chỉ có thể bảo anh chị em: “Các anh chị tự chọn đi, chọn ai cũng được”. Họ là thứ gì vậy? Chẳng phải là phế vật sao? Như vậy là không có năng lực ứng biến. Người không có năng lực ứng biến thì cũng không có năng lực công tác. Bất kể trong tình huống bình thường hay là tình huống đặc biệt, hễ gặp chuyện là họ ngã quỵ và thoái luy, gặp chuyện thì họ chẳng biết làm sao và bắt đầu khóc lóc. Khi chưa gặp chuyện thì họ cũng có thể nói chút câu chữ và đạo lý, nhưng đến khi gặp chuyện mà bảo họ xử lý vấn đề thì họ chẳng biết làm. Chẳng hạn như, khi có những người qua loa chiếu lệ khi làm bổn phận, thì những người không có năng lực ứng biến chỉ biết thương lượng với người ta: “Anh đừng qua loa chiếu lệ, làm bổn phận cho đàng hoàng đi!”. Làm như vậy có thể giải quyết vấn đề của người khác sao? Đáng ra nên thông công nhắm vào vấn đề là chuyện qua loa chiếu lệ. Nếu người kia không hiểu lẽ thật và không nhận thức được vấn đề của mình, thì hãy thông công lẽ thật cho người ta. Còn nếu người kia đã biết là sai mà vẫn cứ làm thì nên mổ xẻ và tỉa sửa họ. Nếu là vì một vấn đề khác thì hãy thông công về vấn đề đó. Nên dựa vào dạng vấn đề xuất hiện mà xác định xem làm như thế nào thì thích hợp, rồi làm theo như vậy. Nếu ngươi không biết làm như vậy, thì ngươi không có năng lực ứng biến. Hiểu chưa? (Thưa, đã hiểu.) Hễ gặp chuyện thì đều không có biện pháp, không có phương thức để ứng phó, cũng không có nguyên tắc để xử lý, như vậy chính là không có năng lực ứng biến. Đây chẳng phải là dạng người có năng lực ứng biến kém nhất sao? (Thưa, phải.)

Những người có năng lực ứng biến tốt nhất chính là những người khi gặp một vài chuyện đặc biệt và tình huống bất ngờ, mà vẫn có thể kịp thời phán đoán và phân biệt, sau đó đưa ra phương án xử lý tương đối thích hợp. Người có năng lực ứng biến trung bình, khi gặp một chuyện bình thường hay chuyện thông thường thì có thể xử lý, có thể làm công tác theo quy trình, giữ vững và quản lý tình hình, hoặc là điều chỉnh, cách chức người ta – họ làm một vài công tác này thì vẫn ổn cả. Nhưng một khi gặp phải tình huống bất ngờ thì họ không biết xử lý, ngươi nói nguyên tắc cho họ thì họ đều không biết vận dụng, ngươi cho họ quyền lực để xử lý thì họ vẫn không biết xử lý. Như vậy chính là năng lực ứng biến trung bình. Người có năng lực ứng biến kém, thì ngay cả trong những chuyện thông thường cũng không xử lý tốt được. Họ chỉ biết nói đạo lý và tuân thủ quy định, cuối cùng chẳng giải quyết được căn nguyên của vấn đề. Một kẻ địch lại Đấng Christ quấy nhiễu và mê hoặc là có thể khiến họ từ bỏ việc rao truyền phúc âm, một lãnh đạo giả nói xằng nói bậy cũng có thể khiến họ dừng công tác phúc âm, như vậy mà là người tuân theo ý chỉ của Đức Chúa Trời sao? Họ chẳng với tới được chuyện này. Dạng người này có năng lực ứng biến quá kém rồi. Người có năng lực ứng biến kém thì cho dù gặp chuyện gì cũng không biết xử lý. Chẳng hạn như, có căn phòng bị cháy thì họ sẽ hoảng lên, nhanh chóng tìm thiết bị chữa cháy. Khi đã tìm thấy thiết bị chữa cháy, họ lại không biết cách dùng, phải tìm sách hướng dẫn, kết quả là lửa cháy lớn hơn rồi. Chuyện thành ra như vậy là vì họ không biết sử dụng thiết bị chữa cháy, dẫn đến làm chậm trễ việc chữa cháy, chuyện này cũng là do không có năng lực ứng biến mà ra. Đối với chuyện cấp bách như cháy nhà thì họ không biết ứng phó, như vậy là không có năng lực ứng biến. Chẳng hạn như, một đứa bé đang ăn thì bị nghẹn, không thở được, hai mắt trợn trắng lên, họ thấy vậy thì hoảng, không biết có cần đưa nó đi bệnh viện không, cũng không biết có nên cho nó uống nước không. Họ lo lắng đến mức đổ mồ hôi hột, mặt đỏ bừng lên, nhưng lại chẳng biết làm thế nào. Sau một hồi, đứa bé ho mấy tiếng, rồi cuối cùng cũng thở được. Họ lo lắng lâu đến vậy mà lại chẳng có biện pháp ứng phó nào, may mà mạng của đứa bé này lớn, không thì đã chết trong tay họ rồi. Người có tố chất kém thì chẳng có năng lực gì, làm việc gì cũng không xong, chút đạo lý họ hiểu được cũng chỉ là quy định và khẩu hiệu. Bất kể trong tình huống bình thường hay là tình huống đặc biệt, họ đều không biết xử lý, không biết ứng phó. Cho nên, về năng lực ứng biến thì loại người này càng trống trơn, chẳng có gì. Khi gặp chuyện gì, họ cũng không biết ứng biến hay xử lý, họ chẳng nhìn thấu được những chuyện đó. Họ cho rằng biết nói chút câu chữ và đạo lý, hô hào chút khẩu hiệu là được rồi, là sống có vốn liếng và đầy đủ rồi. Nhưng thực ra khi gặp chuyện thì những đạo lý họ biết đó chẳng có tác dụng gì, vậy mà họ lại không ý thức được như vậy nghĩa là tố chất mình kém – kém đến mức độ đó mà bản thân còn không biết. Vậy chẳng phải tố chất họ quá kém sao? (Thưa, phải.) Vậy chẳng phải là ngu ngốc sao? (Thưa, phải.) Người ngu ngốc thì như thiếu vài dây thần kinh trong não. Thiếu vài dây thần kinh trong não nghĩa là gì? Nghĩa là bất kể họ hiểu được bao nhiêu đạo lý, tuân thủ được bao nhiêu quy định, thì khi gặp chuyện, chẳng có một quy định hay đạo lý nào có thể giải quyết vấn đề thực tế cả. Họ còn ngẫm nghĩ mãi không ra: “Những đạo lý và quy định này, sao lại không hiệu quả nhỉ?”. Họ nghĩ nát óc cũng vô dụng, ngẫm nghĩ kiểu gì cũng không biết cách để xử lý và giải quyết vấn đề. Khi xử lý chuyện của kẻ địch lại Đấng Christ, có những người không ưu tiên cứu lấy những người bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc, cũng không hỗ trợ cho những người bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc mà nảy sinh tiêu cực và không muốn nhóm họp. Họ làm việc gì trước tiên? Họ mở những buổi nhóm họp lớn, nói rằng kẻ địch lại Đấng Christ có những biểu hiện nào, dạng người nào là kẻ địch lại Đấng Christ, kẻ địch lại Đấng Christ và người có tâm tính địch lại Đấng Christ thì có những khác biệt gì, rốt cuộc làm thế nào để phân định kẻ địch lại Đấng Christ và người có tâm tính địch lại Đấng Christ – chờ đến lúc họ thông công xong những chuyện này rồi, thì có vài người bị kẻ địch lại Đấng Christ mê hoặc đã rời hội thánh từ lâu rồi, có vài người tiêu cực và yếu đuối cũng không nhóm họp nữa. Họ đã bỏ lỡ thời gian tốt nhất để cứu lấy những người này, họ thực sự đã làm hại người ta rồi! Tóm lại, người có tố chất kém thì có khiếm khuyết lớn về năng lực ứng biến, họ hoàn toàn không có năng lực này. Ngươi đừng thấy họ bình thường giỏi ăn nói, giỏi nói câu chữ và đạo lý hoặc giảng về thần học. Mà ngươi hãy nhìn xem khi gặp chuyện thực sự thì họ có năng lực xử lý vấn đề không, nhất là khi gặp phải chuyện bất ngờ thì họ có năng lực phán đoán và phân biệt không, có phương án để xử lý và giải quyết vấn đề không. Nếu họ có, thì chứng tỏ họ có tư tưởng và biết suy nghĩ. Còn nếu họ không có những năng lực phân biệt và phán đoán này, gặp chuyện thì hoảng lên và lo lắng, chỉ biết nói đạo lý to tát và hô hào khẩu hiệu, thì họ không biết giải quyết vấn đề, chính là một phế nhân. Bất kể người khác có bao nhiêu khó khăn, vấn đề, hay khuyết điểm, họ đều dùng cùng một bài lý luận mà giải thích và ứng phó, còn không ngừng thông công kiểu như vậy cho người ta, từ đầu đến cuối chẳng giải quyết được vấn đề – như vậy nghĩa là họ không có bất kỳ năng lực ứng biến nào. Không có năng lực xử lý vấn đề chính là không có năng lực ứng biến. Người không có năng lực ứng biến thì không có bất kỳ tố chất gì, nói thông tục thì họ là đồ ngu, kẻ ngốc, thứ thiểu năng. Họ biết giảng bao nhiêu đạo lý cũng vô dụng, đều không dùng được. Về điều thứ tám, năng lực ứng biến, chúng ta thông công đến đây là xong.

Giờ hãy xem điều thứ chín, năng lực ra quyết định. Năng lực ra quyết định là phép thử lớn đối với tố chất của người ta, người bình thường thì không có năng lực này. Người thực sự có tố chất và năng lực ra quyết định là những người ở tầm ra quyết định. Vậy năng lực ra quyết định chủ yếu nói về điều gì? Nói về chuyện khi các loại con người, sự việc và sự vật khác nhau xuất hiện và những người bình thường không nhìn thấu được chúng, thì một số người có thể dựa vào lời Đức Chúa Trời và lẽ thật mà phân định và xử lý các loại vấn đề và các loại người. Năng lực xử lý vấn đề này được gọi là năng lực ra quyết định. Người có năng lực xử lý này thì có năng lực ra quyết định, người không có năng lực xử lý này thì không có năng lực ra quyết định. Năng lực ra quyết định liên quan đến điều gì? Nó liên quan đến năng lực lĩnh hội, năng lực phán đoán, năng lực phân biệt và năng lực ứng biến – những điều này gọi chung là năng lực ra quyết định. Người có năng lực ra quyết định thì có thể phán đoán ra được thực chất vấn đề, cũng có thể phân biệt được thuộc tính của vấn đề. Đương nhiên, quan trọng hơn nữa, họ có thể nắm vững nguyên tắc và phương hướng để xử lý các loại vấn đề. Ai có những điều này thì mới là người có năng lực ra quyết định. Chẳng hạn như, mọi người đua nhau nói về một đống hiện tượng, sự thật, cũng như những nhân tố, hoàn cảnh, điều kiện, v.v. hiện có. Thông qua những nhân tố và điều kiện đủ mọi mặt vừa nói ở trên, người có năng lực ra quyết định cuối cùng sẽ quyết định rốt cuộc nên làm thế nào, phương thức và phương hướng hành động nên như thế nào, mức độ tốt nhất có thể đạt đến là gì, mức độ thấp nhất có thể chấp nhận được là gì – họ có một ranh giới tối thiểu. Sau đó, họ dựa vào những nguyên tắc lẽ thật mình hiểu mà xử lý những vấn đề này. Người có năng lực như vậy chính là người có năng lực ra quyết định, dạng người này là người có tố chất tốt nhất. Bất kể đối mặt với phương diện nghiệp vụ kỹ thuật nào, hay là xử lý vấn đề về phương diện nào, bất kể vấn đề được phát hiện ra là đơn diện hay đa diện, đơn giản hay phức tạp, thì họ đều có thể thông qua đủ loại thông tin nổi lên từ đủ mọi phương diện để phán đoán thực chất của vấn đề, sau đó phân tích căn nguyên của vấn đề, cuối cùng dựa vào điều kiện hiện có của những vấn đề này mà quyết định xem nên làm thế nào. Việc đưa ra quyết định này chủ yếu dựa trên những gì có thể làm được trong điều kiện hiện có, và cách làm đó là phương án giải quyết tốt nhất. Người biết xử lý vấn đề như vậy chính là người có năng lực ra quyết định. Người có dạng năng lực ra quyết định này chính là người có tố chất rất tốt, người như vậy mới thích hợp làm lãnh đạo, mới thích hợp làm bổn phận trong nhóm quyết sách. Người có tố chất không tốt hoặc tố chất trung bình mà đối diện với các loại vấn đề thì chỉ biết chăm chăm vào bản thân chuyện đó và nói vài lời hời hợt bề ngoài, chứ chẳng giải quyết được vấn đề chút nào. Ngay cả khi hỏi ý kiến người khác và tìm hiểu vấn đề rồi, họ vẫn không đưa ra được định nghĩa và không biết nên làm thế nào. Như vậy chính là không có năng lực ra quyết định. Người có năng lực ra quyết định thì bất kể tình hình hiện tại có phức tạp đến đâu, bất kể vấn đề hiện tại cần được xử lý khó đến đâu và có trở ngại lớn đến thế nào, họ đều có thể chiếu theo nguyên tắc mà xử lý cho thỏa đáng, hơn nữa còn xử lý tương đối thích hợp và ổn thỏa – loại người như vậy chính là người có năng lực ra quyết định. Người có năng lực ra quyết định trung bình mà gặp một tình huống bình thường hay là một vài chuyện thường phát sinh trong hội thánh thì còn có thể xử lý. Nhưng khi gặp một vài con người, sự việc và sự vật đặc biệt, thì họ hoang mang, chẳng biết nên đối mặt với nó hay xử lý nó thế nào, họ ngẫm nghĩ nửa ngày mà cũng không rút ra được kết luận, không đưa ra được quyết định. Người có năng lực ra quyết định thì biết tìm kiếm nguyên tắc lẽ thật nhắm vào điểm mấu chốt của vấn đề. Còn người không có năng lực ra quyết định thì chẳng biết điểm mấu chốt của vấn đề nằm ở đâu, chẳng biết tìm kiếm như thế nào hay tìm kiếm điều gì. Đây chính là điểm khác biệt giữa hai loại người này. Nếu thông qua tìm kiếm mà biết được nên làm thế nào, thì đấy là người có tố chất trung bình. Người có tố chất kém thì cho dù đã hiểu được chút nguyên tắc lẽ thật sau khi tìm kiếm, và trong thời điểm đó cũng cảm thấy mình biết xử lý rồi, nhưng đến lúc xử lý thì vẫn không biết cách làm. Thế là họ thắc mắc: “Vừa mới đây thôi, mình đã hiểu được nguyên tắc lẽ thật đó rồi, sao giờ lại không dùng được nhỉ? Mình sót mất chỗ nào chứ?”. Họ lại bối rối, kết quả là vẫn không giải quyết được vấn đề. Như vậy chính là không có năng lực ra quyết định, là có tố chất kém. Với người có tố chất kém nhất, ngươi bảo làm như thế nào thì họ sẽ làm như thế ấy, ngươi không bảo họ làm như thế nào thì họ không biết cách làm. Người ở tầm ra quyết định ủy quyền hoặc giao cho họ làm một việc gì đó, bảo họ nên làm như thế nào thì họ chỉ biết làm như thế ấy. Còn về chuyện rốt cuộc tại sao lại làm như vậy, làm việc này để đạt được kết quả gì, nếu xuất hiện tình huống bất ngờ và khác với tình huống dự tính ban đầu thì nên làm thế nào, nên xử lý thế nào, thì họ đều không biết, cứ phải hỏi, cứ phải chờ người khác giúp giải quyết – như vậy chính là không có năng lực ra quyết định. Loại người này như người máy vậy, chỉ có thể bị người khác thao túng, sắp đặt, chứ chẳng có năng lực tự chủ. Loại người không có tố chất thì khỏi nói đến chuyện có năng lực ra quyết định, họ cách quá xa phương diện năng lực ra quyết định này, hoàn toàn với không tới. Chia năng lực ra quyết định thành ba mức cao, trung bình và thấp là được rồi. Cao, trung bình và thấp cũng tương ứng với tốt, trung bình và kém. Người không có tố chất thì khỏi nói đến chuyện có bất kỳ năng lực ra quyết định gì, bất kể làm việc gì, họ cũng không ra quyết định được. Chẳng hạn như chuyện đến mùa thu và trời mát dịu thì rốt cuộc nên mặc đồ gì cho thích hợp, đến mùa đông và trời trở lạnh thì nên mặc đồ gì là thích hợp – ngay cả những thường thức cơ bản nhất này mà họ cũng không biết. Vậy chuyện đại sự liên quan đến công tác của hội thánh mà để cho họ ra quyết định thì chẳng phải là bày chuyện cười sao? Đối với người không có tố chất thì khỏi nói đến năng lực ra quyết định làm gì. Năng lực ra quyết định chủ yếu là nói đến cấp lãnh đạo, người làm công và người phụ trách. Người có năng lực ra quyết định cao thì rất ít. Năng lực ra quyết định này còn liên quan đến điều gì nữa? Nó liên quan đến hậu quả của chuyện mà ngươi ra quyết định – hậu quả này là có ích hay là có tác dụng tiêu cực đối với người khác, có thể có tác dụng tốt đối với chuyện người ta hiểu lẽ thật hoặc hành động theo nguyên tắc hay không – những điều này, ngươi phải làm rõ. Không phải ngươi biết ra quyết định, biết quả quyết dứt khoát và quyết định ngay lập tức thì nghĩa là ngươi có năng lực ra quyết định. Còn phải xem những phương án, phương hướng và mục tiêu mà ngươi quyết định có đúng đắn hay không. Nếu kết quả đạt được là tích cực, thì đúng là ngươi có năng lực ra quyết định, còn nếu kết quả đạt được là tiêu cực, dẫn người ta đi lạc đường, hại người ta thê thảm và hủy hoại người ta, thì ngươi chẳng có năng lực ra quyết định gì cả. Do đó, nếu người ta cho rằng mọi nhân vật lãnh tụ và nhân vật lớn đều là người có năng lực ra quyết định, cho rằng mọi nhân vật lãnh tụ đều có tố chất tương đối cao và năng lực ra quyết định tương đối cao, thì đấy không phải là quan điểm chính xác, mà là một tuyên bố sai trầm trọng. Về chuyện quyết định của ngươi đúng hay không đúng, thì còn phải xem nguyên tắc, mục tiêu và phương hướng ra quyết định của ngươi là gì. Nếu mục tiêu và phương hướng đó có ích cho nhân loại, đem lại sự giúp đỡ tích cực và ích lợi cho việc làm người, thực hành lẽ thật, được cứu rỗi, thay đổi tâm tính, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác của người ta, thì năng lực ra quyết định của ngươi thực sự cao. Còn nếu ngươi ra quyết định một cách mù quáng, ra quyết định rồi thì làm khổ người ta, hại người ta thê thảm, khiến người ta đi chệch đường, xa cách Đức Chúa Trời và đánh mất phương hướng, thì đó là ngươi đang hại người, không thể nào được gọi là có năng lực ra quyết định. Về năng lực ra quyết định, chúng ta nói đến đây là xong.

Tiếp theo là năng lực giám định và thưởng thức. Năng lực giám định và thưởng thức là gì, các ngươi có biết không? Đây cũng là một chủ đề ít được bàn đến. Năng lực giám định và thưởng thức nghĩa là đối với một con người, sự việc hay sự vật nào đó, từ trong những thông tin ngươi có thể thấy được và nắm được, ngươi biết giám định và thưởng thức những điểm mạnh, ưu điểm và điểm đáng giá của những con người, sự việc và sự vật đó, sau đó vận dụng chúng vào trong cuộc sống, vào trong việc làm người và hành động của bản thân. Nếu không biết giám định và thưởng thức, thì ngươi không thấy ra được ưu điểm và khuyết điểm của điều đó là gì, không hiểu được điểm mấu chốt trong điều đó là gì, và không thể đạt được ích lợi từ điều đó. Như vậy nghĩa là ngươi không có năng lực giám định và thưởng thức. Còn nếu ngươi biết giám định và thưởng thức, có thể học được những thứ hữu dụng từ một số chuyện nào đó, lại còn có thể vận dụng chúng vào trong cuộc sống hiện thực của mình, và những điều ngươi học được có thể hỗ trợ nhất định cho cuộc sống nhân tính và việc chọn con đường cuộc đời của mình, thì chứng tỏ ngươi có năng lực giám định và thưởng thức nhất định. Năng lực giám định và thưởng thức của ngươi càng cao thì càng chứng tỏ ngươi có tố chất tốt. Lấy một ví dụ đơn giản, giả dụ ngươi xem một bức tranh, mặc dù chưa học về mỹ thuật, nhưng ngươi có thể từ góc độ nhân tính mà nhìn ra được cấu trúc và ý nghĩa ẩn trong bức tranh đó là gì, hơn nữa, góc độ nhìn nhận của ngươi rất đúng đắn, mang tính nhân tính hóa rõ rệt, ngươi có thể thấy ra trong bức tranh một vài điều cụ thể liên quan đến nhân tính hóa, sau đó vận dụng những điều này vào trong cuộc sống hoặc công việc của mình – biểu hiện như vậy chứng tỏ ngươi có năng lực giám định và thưởng thức. Phạm vi của năng lực giám định và thưởng thức là nói đến một vài điều tương đối cụ thể, chứ không trừu tượng. Những thứ trừu tượng bao gồm màu sắc, tác phẩm nghệ thuật, v.v., bởi vì những thứ này không mang tính nhân tính hóa, không đủ cụ thể, cách rất xa tư duy bình tường của nhân tính và những thứ nhất định tồn tại trong cuộc sống của con người, chẳng gần gũi với đời sống, do đó, chúng không được quy vào trong phạm vi năng lực giám định và thưởng thức. Đối với những thứ tương đối gần gũi với đời sống, có ngụ ý hoặc có tính nhân tính hóa, nếu ngươi biết nhìn nhận, phân định và vận dụng, có thể nhìn ra ưu điểm và cả điểm xấu của chúng, có tư tưởng và quan điểm riêng, có thể lĩnh hội được những khía cạnh của chúng mà có ích cho nhân tính, nếu có một vài thứ lệch lạc, cố chấp và trái với lẽ thật thì ngươi cũng có thể phân định được – như vậy gọi là có năng lực giám định và thưởng thức. Nếu ngươi không biết nhìn nhận, khi nhìn thấy một sự vật cụ thể nào đó thì chỉ biết phân định điểm mạnh và điểm xấu của chúng về mặt đạo lý, chứ chẳng thấy được nó liên quan đến những phương diện nhân tính nào trong cuộc sống thường nhật, vậy thì năng lực giám định và thưởng thức của ngươi trung bình. Nếu ngươi nhìn thấy một tác phẩm nào đó, xem tới xem lui mà chẳng biết nó muốn diễn đạt điều gì, tại sao tác giả lại làm như vậy, và bất kể nó có liên quan đến nhân tính hay không, ngươi đều không thấy được thứ mang tính thực chất trong nó là gì, cũng không thấy được điểm mấu chốt của nó, vậy thì ngươi không có năng lực giám định và thưởng thức. Không có năng lực giám định và thưởng thức nghĩa là ngươi chẳng có quan điểm đối với bất kỳ chuyện gì, rất dễ bị mê hoặc bởi trào lưu xã hội hoặc một vài thứ tiêu cực mà người ta tôn sùng. Nghĩa là nó vốn là thứ tiêu cực, vậy mà ngươi lại xem nó là thứ tích cực và tiếp nhận, hậu quả là bị nó đầu độc, rồi nếu thứ đó ở trong ngươi một thời gian dài và ăn sâu bén rễ, thì nó sẽ trở thành một thứ trở ngại và quấy nhiễu đối với việc ngươi tiếp nhận lẽ thật. Về phương diện năng lực giám định và thưởng thức, hãy đưa ra một ví dụ nữa. Chẳng hạn như, một bộ phim quay thô có thời lượng lên đến ba tiếng, sau khi biên tập thì thời lượng còn lại hai tiếng 40 phút. Đây có phải là thời lượng quy ước cho một bộ phim điện ảnh không? (Thưa, không phải.) Điều này cho thấy điều gì? (Thưa, cho thấy người làm phim không có năng lực giám định và thưởng thức.) Đối với một bộ phim, không có năng lực giám định và thưởng thức cụ thể nghĩa là gì? (Thưa, nghĩa là họ không chọn ra được đoạn phim nào tốt hơn những đoạn khác, không phán đoán chuẩn xác về chuyện đoạn phim nào nên giữ lại, đoạn phim nào nên cắt bỏ.) Họ không biết chủ đề mà bộ phim này muốn diễn đạt là gì, không biết cảnh nào có tương quan mật thiết đến chủ đề đó, cho nên họ không có cách nào để chọn. Nghĩa là họ không biết cảnh nào hoặc tình tiết nào là thứ có cũng được mà không có cũng được, chỉ liên quan chút xíu đến chủ đề bộ phim, và có thể cắt bỏ, họ cũng không biết nội dung cảnh nào hoặc tình tiết nào gắn chặt với chủ đề bộ phim và cần được giữ lại. Bởi vì không có năng lực giám định và thưởng thức, cho nên khi biên tập, họ “hạ thủ lưu tình”, cảm thấy không thể bỏ cảnh này, cũng không thể bỏ cảnh kia. Cuối cùng, sau khi đã nhọc công mất sức mà họ chỉ cắt bỏ được những cảnh có vấn đề rõ ràng hoặc cảnh quay không đẹp, còn những cảnh không liên quan nhiều đến chủ đề bộ phim thì họ đều giữ lại hết. Như vậy là không có năng lực giám định và thưởng thức. Họ không rõ về định nghĩa của tác phẩm điện ảnh, về hình thức cụ thể và thủ pháp biểu hiện của phim, về mối liên hệ giữa các cảnh phim, cũng như chuyện cảnh nào thực sự là cảnh phim, những chuyện này họ đều không hiểu – như vậy chính là không có năng lực giám định và thưởng thức. Do đó, lúc quay phim thì họ tràn đầy tự tin, đến lúc biên tập thì mặt đầy đau khổ, đến lúc xét duyệt thì lo lắng muốn chết. Sau khi xét duyệt, thì họ lại rất tự tin, bởi vì thông qua sự chỉ dẫn của Bề trên mà họ đã biết được cảnh nào không cần thiết, rồi mạnh dạn cắt bỏ chúng đi. Cuối cùng họ cắt bỏ đến mức độ nào? Họ cắt bỏ đến mức còn một tiếng 40 phút. Những người quay phim thấy vậy thì khó chịu trong lòng: “Vậy chẳng phải là lãng phí thành quả lao động của chúng tôi sao? Chúng tôi chịu cực chịu khổ quay phim nửa năm mới được nhiều cảnh như vậy, thế mà anh chẳng nương tình chút nào, đoạn này cũng bỏ, đoạn kia cũng bỏ, vậy còn là phim điện ảnh nữa sao?”. Ta trả lời rằng cắt bỏ như vậy là đúng, như vậy mới là phim điện ảnh. Còn cái ngươi làm chẳng phải là phim điện ảnh, cùng lắm là phim chiếu trên truyền hình mà thôi. Người có năng lực giám định và thưởng thức kém thì không với tới được lẽ thật, có thông công về lẽ thật với họ thì cũng không có kết quả gì. Đối với bất kỳ chuyện gì hoặc bất kỳ tư tưởng và quan điểm nào, họ đều không giám định được cái nào phù hợp với nhu cầu và tiêu chuẩn của nhân tính bình thường, cái nào trái với nhân tính bình thường, cái nào là hiện thực và thực tế, cái nào trống rỗng và tưởng tượng, cái nào phù hợp với yêu cầu của Đức Chúa Trời và cái nào trái với tâm ý của Đức Chúa Trời. Đối với một tác phẩm điện ảnh, cảnh nào có tác dụng hỗ trợ cho chủ đề bộ phim, đi thẳng vào điểm chính và diễn đạt trực tiếp chủ đề bộ phim, là thứ cần thiết để diễn đạt cốt lõi của chủ đề bộ phim; còn cảnh nào là chi tiết nhỏ nhặt, dư thừa – thì họ đều không thấy ra được, đều không hiểu được. Đến lúc biên tập thì họ luôn muốn hạ thủ lưu tình, không nỡ cắt bỏ. Như vậy là không có năng lực giám định và thưởng thức. Nếu sau khi quay những đoạn phim thô, thông qua suy xét tư tưởng muốn diễn đạt và đường hướng muốn truyền đạt của bộ phim, mà ngươi biết cảnh nào không nên đưa vào, cảnh nào không đủ sức tác động, cảnh nào là cảnh đề phòng hờ, vốn hoàn toàn không định dùng, chỉ để phòng hờ nếu có tình huống đặc biệt xảy ra mà thôi – nếu trong lòng ngươi có suy xét, có phương án xử lý và và lộ trình giải quyết cho những chuyện này, thì như vậy gọi là có năng lực giám định và thưởng thức. Nếu ngươi chẳng có bất kỳ điều gì trong những điều này, chẳng có căn cứ cho góc độ và phương thức mà ngươi dùng để suy xét và nhìn nhận vấn đề, cuối cùng cũng không đưa ra được kết luận đúng đắn, vậy thì ngươi không có năng lực giám định và thưởng thức. Đương nhiên, đa số người trong hội thánh đều không có năng lực giám định và thưởng thức. Năng lực giám định và thưởng thức không phải chỉ nói đến chuyện ngươi có thể nhìn thấu được bao nhiêu trong một tác phẩm, một nghệ phẩm nào đó, hoặc của ăn tinh thần, triết lý về nhân tính nào đó – điều mấu chốt là ngươi còn phải nhìn nhận chúng cho chuẩn. Một mặt, cái nhìn của ngươi phải phù hợp với sự thật và phù hợp với nhu cầu của nhân tính. Mặt khác, cái ngươi nhận thức hoặc lĩnh hội được phải phù hợp với những điều tích cực, phù hợp với quy luật của hết thảy mọi điều, không trống rỗng, không lệch lạc, cuối cùng còn phải quy về sao cho phù hợp với nguyên tắc lẽ thật. Nếu ngươi không chỉ có thể nhìn ra được những tư tưởng và quan điểm được diễn đạt trong đó, không chỉ dừng lại ở tầm mức đó, mà còn có thể nhìn ra được tư tưởng và quan điểm trong đó rốt cuộc có đúng đắn hay không, rốt cuộc có phù hợp với nhu cầu của nhân tính hay không, rốt cuộc có thuần khiết hay không, rốt cuộc có phù hợp với lẽ thật hay không – nếu ngươi có thể nhìn ra được mọi phương diện này, thì ngươi chính là người có năng lực giám định và thưởng thức tốt, mà người có năng lực giám định và thưởng thức tốt thì chính là người có tố chất tốt. Nếu ngươi không thể đạt đến mọi phương diện này, hoặc chỉ đạt đến chúng ở mức độ trung bình, vậy thì năng lực giám định và thưởng thức của ngươi chỉ ở mức trung bình. Nếu ngươi căn bản không hiểu được những chuyện này – chẳng hạn như, đối với những tác phẩm điện ảnh, tác phẩm văn học nghệ thuật, tác phẩm mỹ thuật thiết kế, v.v., bất kể là trừu tượng hay cụ thể, ngươi đều xem mà chẳng hiểu gì, nghe thì cũng như nghe tiếng nước ngoài, căn bản là nghe mà không hiểu, trong nhân tính thì không có năng lực giám định và thưởng thức những thứ này, vậy thì ngươi không có năng lực giám định và thưởng thức, và ngươi là người không có tố chất. Nếu thông qua việc quan sát khí chất, hay là trạng thái tâm lý và diện mạo tinh thần tổng thể của một nhân vật trong một cảnh nào đó dưới màu sắc, ánh sáng và hoàn cảnh nào đó, mà ngươi có thể nhìn ra được ảnh hưởng của cảnh này lên tâm trí của người xem là gì, vậy thì ngươi có năng lực giám định và thưởng thức. Nhưng người không có năng lực giám định và thưởng thức thì không nhìn ra được, họ sẽ nói: “Cái gì mà ánh sáng mờ hay không mờ, màu sắc đẹp hay không đẹp chứ? Chẳng phải vẫn là cùng một người đó hay sao? Anh làm cách nào nhìn ra tình trạng tinh thần của họ vậy? Sao tôi nhìn chẳng ra nhỉ?”. Như vậy chính là không có năng lực giám định và thưởng thức. Ngươi giải thích cho họ kiểu gì, thì ngoài miệng họ nói biết rồi, nhưng thực ra trong lòng họ vẫn không hiểu, nói cách khác là lĩnh vực này mãi mãi xa lạ đối với họ. Người không có năng lực giám định và thưởng thức thì bất kể làm công tác gì, hay là xem tác phẩm văn học nghệ thuật nào, cũng đều không biết diễn đạt tư tưởng và quan điểm của mình. Nhất là đối với những công tác hoặc tác phẩm cần diễn đạt hàm ý, diễn đạt chủ đề hoặc đem lại sự hướng dẫn tinh thần, thì họ sẽ không thể làm tốt, không thể đảm đương nổi. Nếu ngươi có năng lực giám định và thưởng thức, lại thêm hiểu lẽ thật, thì đối với những công tác của nhà Đức Chúa Trời về phim ảnh, văn học nghệ thuật, mỹ thuật và có liên quan đến năng lực giám định và thưởng thức, ngươi sẽ có thể đảm đương, sẽ có thể làm tốt dạng bổn phận này. Nếu ngươi không có năng lực giám định và thưởng thức, vậy thì tố chất ngươi kém, không thể đảm đương dạng công tác này. Có những người nói: “Con nghe lẽ thật bao nhiêu năm nay, con hiểu nguyên tắc lẽ thật rồi, chẳng phải con có thể đảm đương dạng công tác này rồi sao?”. Vẫn không được đâu, cho dù ngươi hiểu được một vài lẽ thật, nhưng nếu không có năng lực giám định và thưởng thức hỗ trợ, thì ngươi cũng chỉ có thể làm một vài công tác như rao truyền phúc âm hoặc chăm tưới hội thánh. Chứ dạng công tác liên quan đến năng lực giám định và thưởng thức, thì ngươi không đảm đương nổi. Do đó, nếu có những người bị chọn lầm để làm dạng công tác này, bây giờ phát hiện ra mình không có tiềm năng trong lĩnh vực này, bẩm sinh không có năng lực giám định và thưởng thức, thì nên nhanh chóng từ chức, nói rằng: “Tôi không làm nổi hạng mục công tác này, trong nhân tính của tôi không có năng lực giám định và thưởng thức”. Đương nhiên, bất kể ngươi có năng lực giám định và thưởng thức hay không, thì nó luôn là một tiêu chuẩn để đánh giá tố chất của một người. Mặc dù nó không phải là tiêu chuẩn chính, nhưng đối với những công tác đặc thù nhất định, thì năng lực giám định và thưởng thức là điều cần có. Về năng lực giám định và thưởng thức này, chúng ta đã thông công xong. Còn một điều nữa là năng lực cách tân, lần tới chúng ta sẽ thông công.

Thông công như thế này, trong lòng các ngươi đã rõ hơn đôi chút rồi phải không? (Thưa, phải.) Nếu chỉ nói chung chung: “Đánh giá tố chất của một người nghĩa là nhìn xem hiệu suất và hiệu quả làm việc của người ta thế nào”, thì các ngươi cũng chỉ biết nói đạo lý này, nhưng về chuyện những tố chất này cụ thể nói về điều gì, thì các ngươi vẫn không rõ lắm. Sau đó, Ta nghĩ vẫn nên thông công cụ thể hơn nữa. Khi thấu tỏ về phương diện này rồi, các ngươi sẽ có đánh giá chuẩn xác và nhận thức rõ ràng về tố chất của mình. Như vậy sẽ giúp ích cho các ngươi giữ đúng vị trí của mình, không đánh giá quá cao năng lực của mình. Nhìn cho rõ và hiểu được năng lực của mình, xác định tố chất của mình là tốt, trung bình, kém, hay là không có tố chất, xác định mình ở trong nhóm người nào – tìm đúng vị trí của mình như vậy thì có ích cho việc các ngươi hành động và làm người một cách có khuôn phép. Như vậy thì một mặt, các ngươi có thể có nhận thức chính xác về bản thân, mặt khác, trong chuyện giải quyết tâm tính bại hoại, nó cũng có tác dụng hỗ trợ nhất định cho các ngươi trong việc thay đổi tâm tính kiêu ngạo của mình. Phải vậy không? (Thưa, phải.) Hôm nay, chúng ta thông công đến đây thôi. Tạm biệt!

Ngày 4 tháng 11 năm 2023

Trước:  Cách mưu cầu lẽ thật (5)

Tiếp theo:  Cách mưu cầu lẽ thật (7)

Sự xuất hiện và công tác của Đức Chúa Trời Về việc biết Đức Chúa Trời Những cuộc trò chuyện bởi Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Vạch rõ kẻ địch lại Đấng Christ Chức trách của lãnh đạo và người làm công Về việc mưu cầu lẽ thật Về việc mưu cầu lẽ thật Sự phán xét khởi từ nhà Đức Chúa Trời Những lời trọng yếu từ Đức Chúa Trời Toàn Năng, Đấng Christ của thời kỳ sau rốt Lời Đức Chúa Trời Hằng Ngày Các thực tế lẽ thật mà người tin Đức Chúa Trời phải bước vào Theo Chiên Con Và Hát Những Bài Ca Mới Những chỉ dẫn cho việc truyền bá Phúc Âm của vương quốc Chiên của Đức Chúa Trời nghe tiếng của Đức Chúa Trời Lắng nghe tiếng Đức Chúa Trời thấy được sự xuất hiện của Đức Chúa Trời Những câu hỏi và câu trả lời thiết yếu về Phúc Âm của Vương quốc Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 1) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 2) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 3) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 4) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 5) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 6) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 7) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 8) Chứng ngôn trải nghiệm trước tòa phán xét của Đấng Christ (Tập 9) Tôi Đã Quay Về Với Đức Chúa Trời Toàn Năng Như Thế Nào

Cài đặt

  • Văn bản
  • Chủ đề

Màu Đồng nhất

Chủ đề

Phông

Kích cỡ Phông

Khoảng cách Dòng

Khoảng cách Dòng

Chiều rộng Trang

Mục lục

Tìm kiếm

  • Tìm kiếm văn bản này
  • Tìm kiếm cuốn sách này

Connect with us on Messenger